Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018

Thay đổi vận mệnh

 " Ta là Chủ Nhân của Nghiệp, là kẻ Thừa Tự của nghiệp,
 Nghiệp là Thai Tạng, Nghiệp là Quyến Thuộc, Nghiệp là Điểm Tựa.
Phàm Nghiệp nào sẽ làm, Thiện hay Ác, Ta sẽ Thừa Tự Nghiệp ấy "
- Tăng Chi Bộ Kinh -



THAY ĐỔI VẬN MỆNH 

Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.
Trong lữ trình của sinh mệnh, có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của chúng ta, như sự kỳ vọng của phụ mẫu sư trưởng, hay thái độ cừu địch thân hữu. Việc vận dụng tiền tài vật chất, cố nhiên có thể chi phối sự phát triển tiền đồ- con đường phía trước của chúng ta. Một câu nói. Một ý nghĩ. Tất cả đều có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chúng ta. Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem những gì mình đang chịu đời này; muốn biết quả kiếp sau, hãy xem những việc làm của mình ở đời này”. Do vậy, có thể suy luận: Tất cả cảnh giới thuận nghịch mà đời này gặp phải, là do những tạo tác của hành vi quá khứ mà hình thành, đây chính là quả báo của đời này; nhưng mà, nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình.
Những nhân tố ảnh hưởng đến vận mệnh được quy kết như sau:

1.Thứ nhất, tập quán: 
Phật giáo cho rằng phiền não đã là thứ khó đoạn tuyệt, nhưng lại có một thứ càng khó khử trừ hơn đó là tập khí (1). Tập quán (thói quen) vốn là mô thức cố định trong đời sống của chúng ta, có tốt có xấu, nhưng mà sau khi trải qua một thời gian dài, thói quen trở thành tự nhiên, thì sẽ biến thành tập khí thâm căn cố đế, đời đời kiếp kiếp khó mà tiêu trừ. Vì vậy, đối với sự dưỡng thành thói quen, cần phải cẩn thận. Thói quen xấu gồm như hút thuốc, hít độc (tiêm chích ma túy), nát rượu, v.v… những thói quen không lành mạnh này có khả năng tàn phá, làm tổn hại đến thân thể, sức khỏe; hay như nói dối, lạm tình, kiên tham (bủn xỉn, tham lam), v.v…, cũng có khả năng làm bại hoại đến đạo đức của chính mình. Thói quen tốt gồm như chế độ làm việc và nghỉ ngơi bình thường, ăn uống, vận động, tinh thần lạc quan, v.v…, có thể kéo dài tuổi thọ; hay như cần cù, gọn gàng sạch sẽ, sốt sắng nhiệt tình, v.v…, có thể tự lợi lợi người. Phật giáo khởi xướng tín đồ nuôi dưỡng thói quen đọc tụng kinh (2), từ đó có thể nương tựa Phật pháp dẫn dắt qua khỏi bến mê; cũng như dưỡng thành thói quen niệm Phật (3), thì có thể nương Phật hiệu khơi gợi Phật tính trong tâm mà vãng sinh Tịnh độ, siêu việt sinh tử. Tóm lại, một người mặc dù có điều kiện ưu việt được trời ưu ái, mà thói quen không tốt, cũng khó có vận mệnh đại phú đại quý. Thói quen tốt cũng là một trợ duyên, có thể giúp chúng ta biến nguy thành an, thuận buồn xuôi gió.

2.Thứ hai, mê tín: 
Nhiều người thích coi số đoán mệnh, mục đích không ngoài hy vọng mọi việc của mình được như ý muốn, gặp hung hóa kiết, gặp dữ hóa lành. Có người khăng khăng giữ quan niệm chọn bạn trăm năm phải phối hợp Bát tự (4), có người thì chú trọng việc cất nhà sản xuất phải xem phong thủy, lại có người thậm chí mọi việc cầu thần coi bói, không cần phán đoán, nhận định theo lý tính. Hành vi mê tính, bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin, có lúc ngược lại, do vậy mà đánh mất đi những cơ hội tốt hoặc bóp méo sự thật, vô tình chôn vùi hạnh phúc của một đời. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt đẹp, giờ giờ đều là những giờ tốt đẹp, chỉ cần phù hợp chính lý nhân quả, thì không có gì đáng cữ kiêng.

3.Thứ ba, tình ái: 
Gọi là “Ái bất trọng bất sinh Sa bà” (tình yêu vắng mặt chấp thủ, tất sẽ không sinh ở chốn Sa-bà), con người tất nhiên thì là có tình cảm, nhưng có một số người cứ vì quá chấp vào tình yêu, để rồi đánh mất lý trí, thậm chí có người vì tình ái mà tự tạo ra những hố sâu bi tình không thể nào bù đắp lại. Do vì, tình yêu không được xử lý một cách thỏa đáng, thường hay nảy sinh những phiền muộn khổ đau, cho nên Phật giáo khuyên dạy con người nên lấy trí hóa giải tình yêu, lấy từ làm nên tình yêu, có thể thăng hoa tình yêu thành từ bi, như thế mới có thể không tự làm khổ mình, cũng không làm phiền lòng người khác.

4.Thứ tư, quyền lực:
Sự chi phối của quyền lực là do quá cưng chiều ngã chấp (5) và ngã mạn (6), khiến cho con người dưỡng thành ý thức giai cấp tôn ti, quý hèn. Có người tự ti quá độ, cam tâm chịu khuất phục quyền lực, không cầu tự chủ, một đời thấp hèn, ti tiện; có người thì danh lợi lòng dạ hiểm độc, cầu mong quyền lực, không từ một thủ đoạn nào, đánh mất lý tính. Mà Phật giáo thì cho rằng chúng sinh bình đẳng, mọi người đều có Phật tính, bần phú quý tiện thật sự là ở chỗ hữu - vô của đạo đức; chúng ta nên có sự nhận biết và đảm đương trách nhiệm “Ta là Phật” (7), tin tưởng sự kiến lập nắm bắt vận mệnh ngay chính bản thân lực: Phật giáo cho rằng nghiệp lực (8) là sức mạnh lớn nhất có khả năng khống chế vận mệnh. Nghiệp lực là các hành động thân, khẩu và ý của mỗi một người, nó có sức ảnh hưởng đến đời sống vị lai. Nhiều người than thở thời vận của mình không tốt, hoặc oán trách việc người không có lợi cho bản thân, không nghĩ rằng phàm bất cứ việc gì cũng đều do nghiệp lực tạo thành, thành công cố nhiên là ở mình, nhưng việc phối hợp hoàn cảnh bên ngoài, càng không thể xem nhẹ; những thất bại, sai trái tuy đã qua, nhưng cũng nên nhìn lại để phản quan tự tỉnh: Phước ít đức bạc, sao có thể đạt được việc tốt được? Phật giáo chủ trương “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, lúc bình thường nếu có thể quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp chướng, thì chắc chắn có thể hóa giải ác duyên túc thế, khai sáng tiền đồ tốt đẹp trong tương lai.
Tập quán, mê tín, tình ái, quyền lực và nghiệp lực, làm việc thiện làm việc ác đều quyết định ở ý niệm của chúng ta, sửa đổi vận mệnh cũng cần bắt đầu tịnh hóa từ tâm niệm của chúng ta. Nay dùng các phương pháp cụ thể thay đổi vận mệnh được quy nạp như sau:

1 - Thứ nhất, thay đổi quan niệm: 
Quan niệm ảnh hưởng đến phán đoán giá trị của một con người, quyết định thú hướng thiện ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự dưỡng thành chính tri chính kiến. Gọi là “Chính tri chính kiến” chính là những kiến giải và quan niệm chính xác. Phật giáo cho rằng chính kiến cơ bản của đời người (nhân sinh) có bốn: Chính kiến có nhân có quả, chính kiến có nghiệp có báo, chính kiến có thánh có phàm, chính kiến có thiện có ác. Đã có nhân sinh quan chính xác, có niềm tin sâu sắc vào nhân quả, rõ biết duyên khởi, thì tự nhiên sẽ không khởi ác tạo nghiệp, oán trời trách người.

2 - Thứ hai, thay đổi hành vi: 
Tục ngữ nói: “Muốn thu hoạch như thế nào, thì trước gieo trồng xuống những hạt giống như thế đó”. Nghiệp nhân mà từ hành vi của mỗi một người tạo tác, một khi nhân duyên tế hội gặp gỡ thì tự nhiên sẽ sản sinh quả báo, cho nên chúng ta hy vọng tiền đồ tương lai tốt đẹp, cuộc sống phú lạc (giàu sang và vui vẻ), thì cần phải bắt đầu từ hành vi của chính mình, để mong chuyển họa thành phước, bởi vì tất cả hạnh và bất hạnh, đều có thể thao túng, khống chế trong tầm tay của mình.

3 - Thứ ba, quảng kết thiện duyên
Vũ trụ vạn pháp, từ nhân đến quả, trung gian còn phải cần có lực lượng hữu duyên, thì quả mới có thể sinh thành. Một đời của con người, có người thì thông minh trí tuệ, năng lực rất tốt, nhưng trái lại người đó không nhất định sẽ được gặt hái nhiều thành quả mỹ mãn; có người tư chất bình thường, không có gì nổi bật, nhưng trái lại phàm gặp việc gì cũng suông sẽ thuận lợi, đâu đâu cũng được sự tương trợ của người hữu duyên. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng đến “Quảng kết thiện duyên”. Kết duyên là một việc làm tốt đẹp nhất trên thế gian này, đặc biệt sinh mệnh không chỉ một đời, người có khả năng lấy Phật pháp kết duyên, thì đời đời kiếp kiếp đều có thể đi theo các bậc thiện trí thức học tập, tự nhiên vận mệnh thông đạt, ứng nhân xử thế vô ngại.

4 - Thứ tư, trì giới thủ pháp:
Giới (9) là căn bản của tất cả thiện pháp, giới có thể phòng phi chỉ ác, gọi là “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”, hành thiện tất được thiện báo, hành ác tất gặp ác quả, người trì giới thì tuân theo giới luật (thủ pháp), trong hành vi sẽ không phạm vào nghiệp nhân bất hảo, tự nhiên sẽ không gây nên quả báo xấu. Vì vậy, kinh điển tỉ dụ: “Giới như lương sư, giới như quỹ đạo, giới như thành lũy, giới như túi nước, giới như ngọn đèn sáng, giới như bảo kiếm, giới như chuỗi ngọc, giới như thuyền bè”. Trì giới thủ pháp có thể ngăn chặn ác duyên, tự nhiên sẽ có tiền đồ sáng lạn, nhân sinh mỹ mãn.
Phật giáo đối với vận mệnh của một đời con người có cách nhìn tích cực lạc quan, chủ trương các pháp vô thường, duyên khởi tính không (10), vận mệnh xấu có thể dựa vào thiện duyên bồi dưỡng tiến hành thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng nề, cũng có thể giảm nhẹ, gọi là trọng nghiệp khinh báo (11). Con người không nên buồn rầu với số mệnh không tốt của mình, mà cần cố gắng vượt lên, thay đổi vận rủi ấy; cho nên con người không thể phó thác cho trời đất hay mặc cho số mệnh, ủ rũ chán chường, để năm tháng luống qua một cách vô ích, cần có quyết đoán, dứt khoát thay đổi triệt để, tạo dựng nên vận mệnh của chính mình. Vì vậy, cho dù sống trong giàu sang thuận đạt, hoặc là nghèo nàn khổ ách, đều nên chính quán duyên khởi, hiểu rõ vận mệnh, thay đổi vận mệnh, từ đó lập nên vận mệnh mới, tốt đẹp hơn.

Đại Sư Tinh Vân 
Trích dịch từ sách “Phật giáo & Thế tục”

* Chú thích :
(1) Tập khí chỉ tư tưởng hoặc hành vi thường sinh khởi của chúng ta, huân tập lâu ngày thành chủng tử, tồn tại trong thức A-lại-da, tùy sinh tử luân hồi mà trình hiện trong thể sinh mệnh mới như hình theo bóng.
(2) Kinh là chỉ cho giáo pháp mà Phật-đà trình bày, kinh nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển, tức chỗ đó có Phật”. Vì vậy bái kinh, tụng kinh, chép kinh, đọc kinh đều có công đức mở mang trí tuệ. Phật giáo coi trọng văn- tư- tu, nghĩa lý kinh Phật thâm áo, cần nghe nhiều huân tập, tư duy pháp nghĩa, đã có sở đắc, càng nên y lý thực hành trong đời sống, mới có thể được nhiều lợi ích chân chính.
(3) Thông thường mà nói, việc quyết định thú hướng vãng sinh có ba loại: Một, tùy trọng nghiệp đã tạo mà thọ báo; hai, tùy tập khí bình thường thọ báo; ba, tùy nhất niệm lúc lâm chung thọ báo. Kinh A-di-đà nói: “Nếu có người nghe nói đến Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, ví như một ngày hoặc đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người đó lúc sắp lâm chung, Phật A-di-đà cùng chư thánh chúng hiện ngay trước mặt người ấy người lúc lâm chung tâm không điên đảo, tức được vãng sinh quốc độ Cực lạc Phật A-di-đà”. Người niệm Phật thuần thục, tùy thời có thể lấy Phật niệm thay cho tạp niệm, bất luận là tùy tập hay tùy niệm, đều có thể quyết định vãng sinh Tịnh độ.
(4) Bát tự = Tám chữ (giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi) là cách xem số mệnh của Trung Quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra đều bị Thiên can Địa chi chi phối; mỗi hạng có hai chữ thay thế, bốn hạng thì có tám chữ, căn cứ tám chữ này, tức có thể suy đoán vận mệnh/sinh mệnh của một con người. Tục xưa lúc đính hôn, trước phải trao đổi Thiếp tám chữ, cũng gọi “Canh thiếp”, hoặc gọi đơn giản là “Bát tự”.
(5) Chính là chấp trước tự ngã tồn tại chân thật, rồi sinh khởi tâm luyến ái, tham thủ. Thể nguyên của chúng sinh là giả hợp của ngũ ấm. Nếu vọng chấp có sự tồn tại của cái tôi thực thể chi phối ảnh hưởng, mà nảy sinh phân biệt vọng tưởng như “ngã” (tôi) và “ngã sở” (những cái của tôi), tức gọi là ngã chấp. Thành duy thức luận thuật ký ghi, phẩm loại phiền não chướng có rất nhiều, lấy ngã chấp làm gốc, sinh khởi các phiền não; nếu không chấp vào cái tôi, thì phiền não tự dưng biến mất.
(6) Chính là tâm kiêu mạn, tự cho mình tài giỏi hơn người khác, rồi sinh khởi tâm lý khinh thường người khác.
(7) Lời này có nguồn gốc từ công án Thiền tông. Thiền sư Linh Huấn hỏi Thiền sư Quy Tông: “Cái gì là Phật?” Quy Tông: “Nói với ông, ông cũng không tin”. “Ông chính là Phật”. Ý là bất kỳ người nào cũng đều có Phật tính, chỉ cần khẳng khái đảm nhận, thì đều có thể thành Phật làm Tổ. Xem Tinh VânThiền ngữ tứ: Bạn chính là Phật.
(8) Các hoạt động thân tâm như hành vi, ý chí, gọi là “Nghiệp”. Sức ảnh hưởng tiếp nối những việc làm sau đó của chúng ta gọi là “Nghiệp lực”. Phật giáo lấy tư tưởng của nghiệp dùng để biểu đạt thiện ác của hành vi và mối quan hệ qua lại của khổ lạc nhân quả báo ứng, cho đến các nguyên lý luân hồi như kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Thông thường mà nói, nghiệp được chia làm ba nghiệp là thân, ngữ và ý, nếu tạo nghiệp thiện ác, thì sau đó chiêu cảm quả báo (dị thục) khổ lạc tương ứng. Do có nghiệp nhân, nên chiêu cảm nghiệp quả; nghiệp vô ký phi thiện phi ác thì không có năng lực chiêu quả. Nghiệp có nhiều chủng loại, y một đời chúng sinh thọ báo có thể phân làm Dẫn nghiệp (lại gọi là tổng báo, chi phối nghiệp lực của chúng ta sinh ở nhân giới, súc sinh giới hoặc các giới khác) và Mãn nghiệp (còn gọi là biệt báo, nghiệp lực viên mãn của các căn chúng sinh, hình lượng, sắc lực, v.v…) Theo sự dị đồng thọ báo giữa chúng sinh với chúng sinh, có thể chia ra cộng nghiệp (khiến chúng sinh cảm được nghiệp quả báo chung, như sơn hà đại địa, bối cảnh gia đình,…tức sự tương đồng của hoàn cảnh bên ngoài) và bất cộng nghiệp (nghiệp báo bất đồng của chúng sinh ở trong hoàn cảnh giống nhau, như cùng sinh ra từ trong một gia đình, nhưng họa phước không giống nhau). Tùy sự nhanh chậm của thời gian thọ báo, nghiệp còn phân làm Thuận hiện nghiệp (tức hiện tại làm việc thì ngay hiện tại phải nhận quả báo), Thuận sinh nghiệp (tức đời này làm việc, đời sau nhận quả báo), và Thuận hậu nghiệp (đến sau đời thứ ba mới bắt đầu thọ báo)…
(9) Giới pháp Phật giáo bao hàm tất cả hành vi quy phạm thế gian, có các loại sau: Thông giới (các việc ác chớ làm, các việc thiện cần thực hành) và Biệt giới (giới luật được phân biệt chế định trong Tăng đoàn thất chúng, còn có thể chia làm tại gia giới và xuất gia giới); Chỉ trì giới (ngăn cấm điều ác) và Tác trì giới (hành thiện); Tính giới (các giới đối với những hành vi tội ác mà lập nên, như không giết mổ, không trộm cắp…) và Già giới (dù hành vi phi thiện phi ác, nhưng trái lại dễ dàng nảy sinh cơ hiềm/hiềm khích hoặc gợi ra giới pháp hành vi tội ác); Thanh văn giới (lấy tự luật- tự ràng buộc hạn chế làm giới pháp chính, như “Ngũ phần luật”) và Bồ-tát giới (lấy lợi tha làm giới pháp chính, nội dung hàm nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới); Giới tại gia (như ngũ giới, bát quan trai giới…) và xuất gia giới (như Tỳ-kheo giới, Sa-di giới…).
(10) Phật giáo chủ trương các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt, vạn sự vạn vật đều là duyên sinh mà tụ, duyên diệt thì tan, vì vậy không có tự tính, bản chất là không, cho nên nói duyên khởi tính không.
(11) Phật giáo cho rằng tội lỗi hay nghiệp chướng có sâu nặng, cũng có thể thông qua sám hối sửa đổi, nuôi trồng phước đức để giảm nhẹ. Tỉ như một nắm muối, mặn chát không thể nào nuốt được, nếu như dùng nước pha loãng đi, thì vị mặn chát ấy tự nhiên đổi sẽ thành nhạt loãng.

Ứng xử với cái chết

 " Không quá khứ, không tương lai, bây giờ là tất cả
Bất kỳ khi nào bạn ở đây và bây giờ , Phúc Lạc xảy ra "
- Osho -

 


 Ứng xử với cái chết 


... Khi bạn sống trọn vẹn trong từng phút giây, bạn sẽ không còn sợ hãi cái chết, tuyệt đối không có gì để phải sợ hãi. Bạn đã sống cuộc đời của bạn, thưởng thức những ân sủng mật ngọt của nó, với vô vàn biết ơn. Cái chết lúc đó sẽ xuất hiện như một sự nghỉ ngơi dài, không là gì khác... Vì bạn đã biết sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc. Và khi cái chết đến, bạn cũng sẽ biết chết một cách trọn vẹn.
Khi Socrates đang hấp hối sau khi bị kết án phải uống thuốc độc, những môn đệ của ông không ngừng than khóc. Ông mở mắt ra và bảo họ, "Quý vị đang làm gì vậy? Tại sao quý vị lại than khóc? Quý vị đang làm gì trong cái giây phút tuyệt diệu như thế này? Tại sao qúy vị lại để lỡ mất đi một cơ hội? Hãy dự phần với ta. Cái chết đang xuất hiện. Ðừng để lỡ mất cơ hội này. Hãy cố gắng để nhìn thẳng vào cái chết. Ðó là điều ta đang làm đây."
Rồi ông tiếp tục nói với môn đệ, "Bây giờ thì chân của ta tê rồi. Nhưng điều bí ẩn là - chân ta tê rồi, ta không còn cảm giác về nó nữa, nhưng những cảm giác về ta vẫn y nguyên, vẫn không hề giảm sút." Rồi ông tiếp, "Bây giờ đến lượt đôi tay cũng tê rồi. Chúng đã biến mất. Ta không còn cảm giác về chúng nữa." Ông bảo một môn đệ thử châm vào tay mình. Người ta châm vào tay và ông không thấy có cảm giác gì cả. Ông cười và bảo họ, "Thật lạ lùng, thân xác của ta bây giờ coi như đã chết thế nhưng ta vẫn sống như bao giờ. Cảm giác của ta về ý thức vẫn toàn vẹn như bao giờ".
Rồi ông bắt đầu có cảm giác rằng trái tim của mình ngưng hoạt động nhưng cho đến phút cuối ông vẫn còn tiếp tục bảo môn đệ: "Hãy nhớ kỹ. Đây là lời nói cuối cùng của ta. Ta sẽ không thể nói thêm điều gì được nữa bởi vì lưỡi ta đang dần tê cóng." Và tiếp theo là lời nói cuối cùng: "Ta vẫn sống toàn vẹn như bao giờ; ý thức của ta không mất đi một chút nào cả. Cái thân xác này không thể hủy diệt được ta. Cái thân xác này đang ra đi, ta đang trên bờ tan biến, nhưng cảm giác nội tại, cái ý thức chủ quan vẫn không hề bị đụng tới. Thực ra, nó còn sáng tỏ hơn xưa."
Cái chết mang đến cho ta một bối cảnh; nó trở thành một cái bảng đen và đời sống như là một cái gì đó được viết bằng phấn trắng lên trên tấm bảng đen này. Khi sống có thể là bạn không cảm nhận đời sống một cách sâu sắc, một cách bén nhạy, một cách tế nhị, nhưng trái lại bạn có thể cảm nhận chúng khi chết. Chẳng khác gì nhìn những ngôi sao trong đêm, bầu trời càng tối đen, những ngôi sao càng lấp lánh. Chúng vẫn ở đó suốt ngày, chúng không đi đâu cả, không thể đi đâu được. Chúng đi đâu bây giờ? Chúng vẫn ở đó, nhưng vì ánh sáng của mặt trời, ta không thể thấy chúng. Ánh sáng của chúng bị xóa nhòa đi trong ánh sáng của mặt trời. Nhưng trong đêm tối, chúng lại xuất hiện - lấp lánh, tuyệt vời. Điều này cũng xảy ra giống y hệt như thế với cái chết. Đời sống trở thành một ngôi sao chiếu sáng lấp lánh.
...Tôi không hề biết cái chết là gì bởi vì tôi đang chết, trong mỗi khoảnh khắc cái tôi quá khứ đang chết. Tôi không hề sống trong quá khứ. Và bởi vì tôi không sống trong quá khứ, tôi cũng không hề sống trong tương lai - tương lai luôn luôn chỉ là sự phóng chiếu của quá khứ. Cái quá khứ chết tạo ra một tương lai sai lạc, chỉ có giây phút hiện tại này đây là đúng đắn.
Tôi đang hiện hữu tại đây, trong khoảnh khắc này. Đâu có vấn nạn gì về cái chết? Làm sao bạn có thể chết ở trong khoảnh khắc hiện tại? Cái chết luôn luôn là một vấn nạn được phóng chiếu: Một ngày nào đó bạn sẽ chết. Đây chỉ là sự suy luận - một ngày nào đó. Ai đó đã chết, bạn trông thấy họ đang hấp hối và rồi bạn trở nên sợ hãi rằng bạn sẽ chết. Thế nhưng bạn có thực sự trông thấy y chết như thế nào chưa? Bạn mới chỉ thấy những biểu hiện bên ngoài, bạn chưa hề thấy cái gì xảy ra ở bên trong.
Chưa hề có ai chết. Chết là điều dối trá lớn nhất; nó không hề hiện hữu. Chỉ có đời sống là hiện hữu. Đời sống là vĩnh cửu. Nếu bạn liệng bỏ quá khứ, tương lai cũng tan biến theo. Trong khoảnh khắc của hiện tại, cái chết không hề có mặt, trong hiện tại, chỉ có đời sống.
Hãy để cho khoảnh khắc này đây là khoảnh khắc hiện tại. Đừng sống trong quá khứ bởi vì không ai có thể sống trong quá khứ. Nó đã trôi qua. Cũng đừng xây những lâu đài trong tương lai, nó sẽ không bao giờ hoàn tất. Tuơng lai không hiện hữu. Hãy sống với chính khoảnh khắc hiện tại này.
Có lần Chúa Giê Su nói với môn đệ: "Hãy nhìn những đoá hoa uất kim hương trên cánh đồng kia. Thật là đẹp tuyệt vời. Ngay vua Solomon có đem tất cả gấm vóc quý giá của ông ta trải ra, cũng không đẹp được như thế." Thế thì cái bí mật của những đoá hoa uất kim hương trên cánh đồng là gì? Chính là do chúng sống trong khoảnh khắc hiện tại. Ngày hôm nay là ngày hôm nay. Đêm nay là đêm nay và khoảnh khắc này chính là khoảnh khắc này.
Một khi bạn bắt đầu sống với khoảnh khắc hiện tại có nghĩa là bạn giao tiếp với đời sống một cách liên tục và trọn vẹn. Và rồi đời sống sẽ không ngừng tiếp nối làm bạn tươi mát trở lại, trẻ trung trở lại.
Vâng, một ngày nào đó thân xác của bạn có thể tan biến đi, nhưng đó không phải là chết - một cách đơn giản, đó là một cái thân xác mệt mỏi bắt đầu được nghỉ ngơi. Vâng, cái tâm thức này cũng sẽ bị mất đi, bởi vì cái tâm thức này đã được sử dụng quá nhiều. Thế thì bạn còn muốn cái gì nữa? Sử dụng cái tâm này vĩnh viễn? Bạn chưa chán ngấy nó sao? Cái tâm này làm việc từ khi bạn chào đời cho đến ngày bạn ra đi - bảy mươi, tám mươi, chín mươi năm. Ðây cũng là một cổ máy thôi. Hãy rủ một chút lòng từ bi cho cổ máy này - ngày qua ngày nó trở nên già cỗi, ngày qua ngày nó không còn làm việc hiệu quả, bạn cần một cổ máy mới thôi.
Thân xác này đã trở nên già nua, thân xác này đã trở nên mục rửa, nó cũng chỉ là một cổ máy. Một cổ máy rất tinh vi, phức tạp mà cho đến nay khoa học vẫn chưa sáng chế nổi. Một cổ máy hoàn toàn tự động. Bạn cho rằng máy móc tự động là chuyện mới mẻ? Không đâu bạn ơi, cái thân xác của bạn là một bộ máy tự động từ hàng triệu năm rồi. Khi bạn ăn uống, thực phẩm được tiêu hoá một cách tự động. Bạn không phải làm công việc tiêu hóa. Khi bạn thở vào, máu nhận dưỡng khí và thải ra thán khí một cách tự động - bạn không cần phải làm những công việc này. Hãy nghĩ đến chuyện bạn phải cáng đáng những công chuyện như thế! Chỉ một ngày thôi cũng đủ làm bạn phát điên lên rồi, không cách chi sống nỗi. May mà tất cả đều tự động. Trong suốt bảy chục, tám chục, chín chục năm trời cổ máy tự động này vẫn chạy đều. Vâng, thì thỉnh thoảng bạn cũng bị ốm đau, thỉnh thoảng bạn cảm thấy không khoẻ, bị chuyện nọ chuyện kia - nhưng nó có thấm vào đâu. Với cái cổ máy phức tạp tinh vi như thế, tất cả những ốm đau so ra chẳng là cái gì cả. Chuyện bạn hiện hữu mới là phép lạ. Chuyện bạn có sức khoẻ mới là phép lạ.
Nhưng rồi tất cả mọi cổ máy đều cũng phải có lúc già nua mệt mỏi. Ngay cả kim loại cũng thế. Các nhà khoa học bây giờ cho ta biết kim loại cũng bị già nua. Ngay khi tôi đang nói chuyện với bạn, không phải chỉ thân xác của tôi sẽ già đi mệt mỏi mà cái micro tôi đang cầm trên tay cũng sẽ già đi mệt mỏi. Tất cả mọi vật đều sẽ già nua và đều cần an nghỉ.
Cái chết là sự nghỉ ngơi, không là gì khác. Bạn hoà nhập trở lại với tứ đại. Thân xác này trở về với trái đất để nghỉ ngơi. Nhưng rồi nó sẽ được phục sinh trong một ngàn lẻ một thân xác khác, nó sẽ trở lại. Bạn có thể thấy được điều này ở khắp nơi. Khi mùa xuân về, cây cối đơm bông, nhưng rồi những cánh hoa biến mất trở lại trong lòng đất. Và rồi những chiếc lá rụng rơi trở thành phân bón. Một lần nữa chúng sẽ lại thể nhập vào dòng lưu chuyển của một cái cây khác, một lần nữa chúng sẽ trở thành bộ phận của một cái cây khác, một lần nữa chúng sẽ lại sống động dưới ánh sáng mặt trời, sẽ lại vui đùa với làn gió, với trăng sao, chúng sẽ lại cười cợt, sẽ ca lại khúc nhạc đời bất tận và rồi chim chóc sẽ tụ hội trở về, và con người thích thú ngắm nhìn chúng.
Ðiều này lại được tái diễn. Ðời sống là một vòng luân chuyển của hành động và nghỉ ngơi, hành động và nghỉ ngơi. Ðời sống không phải chỉ là những gì mà bạn gọi là đời sống - cái chết cũng là một phần của đời sống, cái chết không phải là sự kết thúc. Cái chết là một phần của đời sống, thông qua cái chết đời sống hiện hữu, đúng như thế, qua cái chết đời sống được nghỉ ngơi lấy lại toàn bộ năng lượng và sức sống để trở lại. Giống như bạn đi ngủ mỗi đêm. Vâng, ngủ là một cái chết ngắn. Bạn chỉ chết trong vòng vài giờ và nếu bạn chết đúng mức, mỗi buổi sáng bạn sẽ rất tươi tắn, bạn sẽ trẻ trung trở lại, đôi mắt sẽ linh động, đôi chân như muốn nhảy múa, con người bạn sẽ tràn ngập niềm vui và mật ngọt hương đời. Còn nếu bạn không thể ngủ ngon, sáng ra bạn sẽ vô cùng mệt mỏi.
Thế nên phải học cách sống trọn vẹn và chết trọn vẹn. Khi bạn chết, hãy chết một cách trọn vẹn để khi tái sanh trở lại, những tinh tuý mật ngọt lại tuôn chảy trở lại trong bạn. Nhưng tại sao bạn lại phải bận lòng về chuyện này? Bận lòng về một chuyện không đáng - có bao giờ bạn phải mất công suy xét về nó? Có bao giờ bạn nghĩ đến bạn đã ở nơi đâu trước kiếp sống này, trước khi được sinh ra? Bạn đã không hề quan tâm đến mà. Thế thì tại sao bạn lại lo nghĩ đến cái chết? Bạn đã từng kinh qua cái chết biết bao nhiêu lần rồi và không còn quan tâm đến nữa. Bạn có thể là Alexandre Ðại Ðế, đâu biết được? Có đủ loại khùng điên đang có mặt ở đây. Bạn có thể là Thành Cát Tư Hãn, là Adolf Hitler ...bao nhiêu người Ðức đang có mặt tại đây. Làm sao biết được?
Biết bao nhiêu chuyện xảy ra trong thế giới này và bạn không hề bận tâm đến. Ngay cả nếu có người bảo cho bạn biết rằng bạn đã từng là Alexandre Ðại Ðế, bạn sẽ trả lời là bạn không cần biết. Ðâu có gì quan trọng? Khi bạn đang là Alexandre Ðại Ðế, đó mới là chuyện quan trọng - thế mà bây giờ bạn lại suy nghĩ rất nhiều về cái chết.
Bạn sẽ chết và bạn sẽ không chết. Ðây là một sự kết hợp. Cái thân xác này trở nên già cỗi, cái tâm này trở nên già cỗi, cái ngã này trở nên già cỗi... thế là cái thực tánh ở trong bạn, vị chủ nhân thực sự của ngôi nhà, cái tâm thức, làm một bước nhảy, đi tìm kiếm một thân xác mới, một cái bào thai khác, để được tiếp tục.
Rồi sẽ có một khoảnh khắc nào đó bạn cảm thấy chán ngán cái vòng lẩn quẩn của đời sống. Cái vòng đầu tiên, cái vòng kế tiếp, cái vòng khác, những vòng quay tiếp nối những vòng quay. Có một khoảnh khắc trong đời bạn bỗng nhiên tỉnh thức trước những gì đang xảy ra. Bạn cảm thấy chán ngán, không phải chỉ cho một kiếp sống mà cho cái vòng quay lẩn quẩn như thế, cái vòng quay bất tận hết đến rồi đi - cái mà Ấn Ðộ giáo gọi là awagaman, đến và đi.
Cái ngày mà bạn trở nên chán ngán cái cõi đi, về trong hiện tại này, bạn trở nên tín ngưỡng. Một nhân tố mới đã đi vào tâm thức bạn, một tia sáng mới. Thế là bạn bắt đầu suy nghĩ về niết bàn. Một cái chết thông thường là sự loại bỏ một kiếp sống để bạn tiếp tục sống trở lại; niết bàn là sự loại bỏ tất cả các kiếp sống để bạn không còn sống như một cá thể, bạn bắt đầu sống như là vũ trụ, như là Thượng Ðế. Sẽ không còn nhu cầu phải trở lại xác thân, với tâm và cái ngã.

Osho

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

Cuba và Fidel Castro

“Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” *
- Fidel Castro -



BAO GIỜ VIỆT NAM MỚI ĐƯỢC NHƯ THẾ
Ở Cuba, có những điều mà ít nhất 2/3 dân số Việt Nam đang nằm mơ cũng không được như vậy.
Tất cả trẻ em Cuba đều được giáo dục miễn phí ngay từ mẫu giáo lớn (5 tuổi) cho đến khi tốt nghiệp đại học hoặc học lên đến tiến sĩ. Trong suốt quá trình học này, học sinh không phải chi một xu cho tiền may đồng phục, tiền mua sắm sách vở, giấy bút và còn được nuôi ăn một bữa hoặc cả ngày (tùy theo từng trường).
Trẻ em Cuba từ khi đi học mẫu giáo đã được học 3 thứ. Đó là: âm nhạc, múa và bơi lội. Còn chữ nghĩa thì cũng có học nhưng chỉ là nhận biết mặt chữ mà thôi. Không có một trẻ em Cuba nào bị thất học, dù đó là ở nơi “thâm sơn cùng cốc”.
Tất cả người dân Cuba đều được khám, chữa bệnh miễn phí và được dùng những loại thuốc tốt nhất có thể. Vào những bệnh viện ở Cuba, không làm gì có cảnh bệnh nhân “lóp ngóp” chui từ gầm giường ra chào hoặc ba bốn bệnh nhân chung nhau một giường (như ở Việt Nam). Việc một ông ủy viên Trung ương nằm chung phòng điều trị với một ông phó thường dân là chuyện bình thường.
Tất cả người dân, trẻ em Cuba đều được uống sữa tươi miễn phí. Nếu là trẻ em dưới 10 tuổi thì đều “như vắt chanh”, mỗi ngày được uống nửa lít sữa và nhà nào không có điều kiện ra cửa hàng lấy thì có người mang sữa đến tận nhà.
Rồi nữa, giáo dục của Cuba được xếp vào hàng tiên tiến nhất thế giới, ngang với Đan Mạch. Y tế Cuba thì cũng đứng vào hàng đầu và họ đã chế ra được vắc-xin phòng chống bệnh ung thư và nhiều loại thuốc đặc biệt khác. WHO đã công nhận Cuba là quốc gia đầu tiên trên thế giới ngăn chặn thành công nguy cơ lây truyền bệnh giang mai và virus HIV từ mẹ sang con.
Thể thao Cuba thì cũng đứng vào hàng thứ 14, 15 gì đó trên thế giới (trong khi Việt Nam ta chưa được xếp vào thứ bậc nào trên thế giới, hoặc nếu có thì cũng hàng… đội sổ).
Còn về trật tự xã hội thì quả thực đó là một thiên đường cho sự ngăn nắp, nề nếp, văn minh và sự tôn trọng các quy tắc trật tự đô thị, bảo vệ môi trường. Đúng là người dân Cuba còn thiếu thốn bởi các lệnh cấm vận của Mỹ. Nhưng trong phạm vi có thể, Chính phủ đã lo cho trẻ em và người già hết mức. Đấy chính là bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa tại Cuba.
Đi trên đường phố thủ đô La Habana hoặc đến bất cứ cửa hàng nào, không làm gì có cảnh người dân chen lấn, xô đẩy mua hàng hóa hoặc chen lấn lên xe buýt. Một cháu bé đang đi tung tăng trên vỉa hè, nếu vui chân chạy xuống đường thì lập tức tất cả các phương tiện giao thông đang đi trên đường dừng lại, người lái xe sẽ xuống xe dắt cháu trên vỉa hè rồi mới đi tiếp.
Đúng là xã hội của họ còn nhiều thiếu thốn, cách quản lý, xây dựng phát triển kinh tế của họ cũng còn nhiều điều phải bàn, phải cải tổ nhưng rõ ràng họ đã chăm lo tốt hơn ta rất nhiều cho đời sống người dân, đặc biệt là trẻ em và người già. Mà nhân đây cũng phải nói thêm rằng, bình quân thu nhập theo đầu người của Cuba còn gấp 3 lần người Việt Nam (khoảng3.000USD/người/năm). Chỉ có điều là Cuba đã dành 54% tổng thu nhập quốc gia cho giáo dục và y tế.
Bao giờ Việt Nam ta mới được như thế!?

Như Thổ


CUBA NGHÈO VÌ FIDEL CASTRO HAY VÌ MỸ

Để đánh giá một cách khách quan di sản của Castro, sự phát triển của Cuba và những cải cách ngày nay, chúng ta không thể vờ như sự phong tỏa của Mỹ là không có tác động đến cơ cấu của nền kinh tế Cuba.
Cùng với những mô tả về ông như một “nhà độc tài tàn bạo”, các phản ánh tiêu cực về Fidel Castro từ ngày ông qua đời 25/11 chủ yếu tập trung vào việc “quản lý yếu kém” của ông đối với nền kinh tế Cuba và hậu quả “cực nghèo” mà người dân Cuba phải gánh chịu.
Đây là một bức tranh biếm họa mơ hồ - không chỉ vì nó bỏ qua các tác động có sức tàn phá kinh tế của lệnh cấm vận của Hoa Kỳ trong hơn 55 năm, mà còn vì nó dựa trên những giả định kinh tế học tân cổ điển. Nghĩa là bằng cách nhấn mạnh chính sách kinh tế (của Castro) thay vì những hạn chế về kinh tế (mà lệnh cấm vận của Mỹ gây ra), các nhà phê bình có thể đẩy trách nhiệm về hậu quả nghèo đói của Cuba cho Castro mà không đề cập đến việc chính quyền Mỹ đã liên tiếp áp đặt lệnh cấm vận đến nghẹt thở.
Cách tiếp cận trên cũng bỏ qua những câu hỏi quan trọng dành cho Cuba sau cuộc cách mạng: Những nước có mức thu nhập trung bình và thu nhập thấp có thể nhận nguồn vốn ở đâu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cung cấp phúc lợi? Làm thế nào có thể thu được vốn nước ngoài mà không bị các điều kiện cản trở phát triển, và làm thế nào một đất nước chậm phát triển như Cuba có thể sử dụng thương mại quốc tế để tạo ra thặng dư trong một nền kinh tế toàn cầu mà nhiều người cho rằng đang có xu hướng “bất bình đẳng trong thương mại” ?
Việc tìm kiếm các giải pháp cho thách thức về phát triển đã dẫn chính quyền cách mạng Cuba đi theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. Họ đã thực hiện một nền kinh tế kế hoạch, trong đó sở hữu nhà nước chiếm ưu thế vì họ xem hệ thống này là giải pháp tốt nhất cho các thách thức lịch sử trên.
Nhưng hoạt động trong khuôn khổ xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến những hạn chế và rắc rối khác, đặc biệt là trong bối cảnh của một thế giới lưỡng cực. Cuốn sách của tôi: “Che Guevara: Khía cạnh kinh tế của cách mạng” nghiên cứu về các mâu thuẫn và thách thức đối với chính quyền cách mạng non trẻ nhìn từ góc độ vai trò của Guevara khi là chủ tịch Ngân hàng Quốc gia và Bộ trưởng Công nghiệp.
Các tài liệu về Cuba bị chi phối bởi “Cubanology”, một trường phái đối lập về chính trị và tư tưởng với Cuba xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện và liên quan tới chính phủ Mỹ của nó cũng được chứng tỏ bằng tư liệu. Nó lập luận rằng cuộc cách mạng đã thay đổi mọi thứ ở Cuba – và Fidel (và sau đó là Raul) Castro đã một mình chi phối các chính sách trong nước và chính sách đối ngoại kể từ sau cách mạng, qua đó ngăn chặn dân chủ và trấn áp xã hội dân sự. Sự quản lý kinh tế yếu kém của họ đã làm tăng trưởng đạt được không đáng kể từ năm 1959. Họ chỉ đơn giản thay thế sự phụ thuộc vào Mỹ bằng sự phụ thuộc vào Liên Xô cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990.
Những lý luận này cũng đã định hình các nội dung chính trị và truyền thông về Cuba. Nhưng vấn đề của cách phân tích này là nó cản trở khả năng của chúng ta trong việc nhìn thấy rõ những gì diễn ra ở Cuba, hay cản trở khả năng phân tích sức mạnh của cuộc cách mạng và sức sống của xã hội Cuba.

1. Castro đã thừa hưởng những gì?
Những lập luận về sự thành công hay thất bại của nền kinh tế sau năm 1959 thường dừng lại ở thực trạng của nền kinh tế Cuba trong những năm 1950. Chính phủ sau năm 1959 được thừa hưởng một nền kinh tế có sản phẩm đường làm chủ đạo với những vết sẹo sâu về chủng tộc và kinh tế-xã hội do chế độ nô lệ để lại. Jaime Suchlicki, người theo trường phái Cubanology, lập luận rằng Cuba của Batista đã từng “ở giai đoạn cất cánh như Walter Rostow mô tả”, trong khi Fred Judson chỉ ra những yếu kém về cơ cấu trong nền kinh tế Cuba: “khủng hoảng kéo dài đã tạo nét đặc trưng cho nền kinh tế: thịnh vượng bề ngoài và nhất thời”. Vì vậy, trong khi một bên khẳng định cuộc cách mạng đã làm gián đoạn sự tăng trưởng tư bản mạnh mẽ, thì bên còn lại tin rằng cuộc cách mạng là điều kiện tiên quyết để giải quyết những mâu thuẫn cản trở phát triển bằng cách chấm dứt sự phụ thuộc của Cuba vào chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ.
Sau cuộc cách mạng, Castro đã nỗ lực mang đến phúc lợi xã hội và cải cách ruộng đất cho nhân dân Cuba và tịch thu tài sản phi nghĩa của tầng lớp thượng lưu Cuba. Nhưng khi bên thua cuộc Fulgencio Batista và đồng bọn trốn khỏi Cuba, họ đã lấy cắp hàng triệu peso từ Ngân hàng Quốc gia và Kho bạc. Đất nước bị bòn rút, làm hạn chế nghiêm trọng khả năng chi tiêu công và đầu tư tư nhân. Người Cuba giàu có thì rời đảo, mang theo các khoản tiền và thuế. Chính phủ mới sẽ làm thế nào để thực hiện những cải cách kinh tế-xã hội đầy tham vọng khi không có các nguồn lực tài chính?
Chúng ta phải nhìn vào thực tế tại mỗi thời điểm. Ví dụ khi lệnh cấm vận đầu tiên của Mỹ được thực hiện, thì lúc đó 95% tư liệu sản xuất của Cuba và toàn bộ các linh kiện được nhập khẩu từ Mỹ – và Mỹ là nước nhận xuất khẩu chính yếu của Cuba. Khi khối Xô-viết tan rã, Cuba bị mất 85% lượng thương mại và đầu tư, dẫn đến GDP giảm mạnh 35%. Các sự kiện này đã gây nên các khó khăn kinh tế nghiêm trọng đối với khả năng xoay sở của Cuba.

2. Đằng sau sự nghèo đói
Tiếp đến, ta cũng nên tự hỏi: Chúng ta đo lường mức nghèo của Cuba như thế nào? Bằng GDP bình quân đầu người? Thu nhập hằng ngày? Có nên sử dụng những thước đo kinh tế tư bản chủ nghĩa, các thống kê tăng trưởng và năng suất để đo sự “thành công” hoặc “thất bại”, trong khi ít chú ý đến các ưu tiên về xã hội và chính trị?
Dù xếp Cuba vào nhóm có GDP bình quân đầu người thấp nhưng Chỉ số phát triển con người (HDI) đã liệt kê Cuba trong danh sách có “chỉ số phát triển con người cao”; Cuba không chỉ xuất sắc về y tế và giáo dục, mà còn về sự tham gia của phụ nữ và hòa nhập chính trị. Cuba đã loại bỏ được nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em. Không có trẻ em ngủ trên đường phố. Thực ra là không có cả người vô gia cư. Ngay cả trong những năm 1990 nạn đói hoành hành do khủng hoảng kinh tế, người dân Cuba không chết đói. Cuba vẫn duy trì nền kinh tế kế hoạch và điều này giúp người Cuba phân phối đồng đều các nguồn lực khan hiếm.
Vâng, tiền lương cực kỳ thấp (cả Fidel và Raul cũng than thở) – nhưng mức lương của người dân Cuba không quyết định tiêu chuẩn sống của họ. Khoảng 85% người dân Cuba có nhà riêng và tiền thuê nhà không vượt quá 4% thu nhập. Nhà nước cung cấp một giỏ thức ăn rất cơ bản  trong khi các hóa đơn điện nước, chi phí đi lại và thuốc men được giữ ở mức thấp. Các nhà hát, rạp chiếu phim, những vở ba lê,v.v… có giá đều rất rẻ cho tất cả mọi người. Giáo dục chất lượng cao miễn phí và chăm sóc y tế miễn phí. Những điều này là một phần của cải vật chất của Cuba không nên bị bỏ qua khi ta đánh giá, chứ không phải tiêu dùng cá nhân các hàng tiêu dùng là thước đo duy nhất của sự thành công về kinh tế.

3. Chương trình Operation Miracle 
Những thách thức cụ thể và thực tế mà quá trình phát triển của Cuba phải đối mặt đã tạo ra những mâu thuẫn hiếm thấy. Trong một nền kinh tế kế hoạch, với ngân sách cực kỳ chặt chẽ, họ đã phải lựa chọn ưu tiên: cơ sở hạ tầng thì đổ nát nhưng họ lại có các chỉ số phát triển con người hàng đầu thế giới. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thể hiện rất nhiều về tiêu chuẩn sống, và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế, xã hội và y tế. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Cuba là 4,5 trên 1.000 ca sinh sống, đã đưa Cuba vào cùng danh sách với những nước hàng đầu thế giới, hơn cả Mỹ trong bảng xếp hạng riêng của CIA.
Không chỉ người Cuba trong nước mới được hưởng những sự đầu tư này. Hàng chục nghìn bác sĩ, các nhà giáo dục và các cán bộ hỗ trợ phát triển người Cuba đã đi phục vụ trên toàn thế giới. Hiện nay khoảng 37.000 bác sĩ và y tá Cuba đang làm việc tại 77 quốc gia. Họ tạo ra luồng trao đổi ngoại tệ trị giá khoảng 8 tỷ đô la Mỹ mỗi năm.
Ngoài ra, Cuba chữa trị và đào tạo y tế miễn phí cho hàng ngàn người nước ngoài mỗi năm. Là một sáng kiến trực tiếp của Fidel, vào năm 1999 Trường Y Mỹ Latinh đã được khánh thành tại Havana để cung cấp chương trình đào tạo 6 năm miễn phí cho sinh viên nước ngoài từ các nước nghèo, chỗ ở hoàn toàn miễn phí. Năm 2004, Cuba đã hợp tác với Venezuela phẫu thuật mắt miễn phí cho người dân ở nhiều nước thuộc Chương trình Operation Miracle (Chiến dịch Phẫu thuật Điều diệu kỳ). Trong mười năm đầu tiên hơn 3 triệu người đã tìm lại được ánh sáng.
Mỹ thậm chí cấm vận buôn bán thuốc đối với Cuba nhưng lệnh cấm vận đã khiến Castro ưu tiên đầu tư vào y học. Cuba hiện đang sở hữu khoảng 900 bằng sáng chế, bán dược phẩm và vắc xin tại 40 quốc gia, đem lại doanh thu 300 triệu đô la mỗi năm, với tiềm năng mở rộng rất lớn. Ngành dược của Cuba sản xuất hơn 70% các loại thuốc cho 11 triệu dân Cuba sử dụng. Toàn bộ ngành công nghiệp dược thuộc sở hữu nhà nước, các chương trình nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của người dân, và tất cả thặng dư được tái đầu tư vào lĩnh vực này. Nếu không có kế hoạch nhà nước và đầu tư công không chắc điều này có thể đạt được tại một nước nghèo.
Vào giữa những năm 1980 Cuba phát triển vắc-xin viêm màng não B đầu tiên trên thế giới. Ngày nay, Cuba dẫn đầu trong các loại thuốc trị ung thư. Trong năm 2012 Cuba cấp bằng sáng chế vắc-xin điều trị ung thư đầu tiên. Lệnh cấm vận của Mỹ đã buộc Cuba phải tìm mua các loại thuốc, thiết bị y tế và các sản phẩm X quang từ các nguồn bên ngoài nước Mỹ, khiến phát sinh thêm chi phí vận chuyển.

4. Nền kinh tế chia sẻ
Năm 2009 Tổng thống Rafael Correa của Ecuador đã bảo tôi: “Một tấm gương tuyệt vời từ Cuba đó là trong nghèo đói, Cuba đã biết cách chia sẻ, thông qua tất cả các chương trình quốc tế của mình. Cuba là quốc gia có sự hợp tác vĩ đại nhất nếu so với tổng sản phẩm nội địa, và đây là một tấm gương cho tất cả chúng ta. Điều này không có nghĩa rằng Cuba không có vấn đề lớn, nhưng chắc chắn là không thể đánh giá sự thành công hay thất bại của mô hình Cuba nếu không xét đến sự phong tỏa của Mỹ, một cuộc phong tỏa đã kéo dài 50 năm. Ecuador sẽ không thể tồn tại được 5 tháng với sự phong tỏa đó.”
Về lệnh cấm vận: chính phủ Cuba ước tính lệnh cấm vận đã làm cho đảo quốc tổn thất 753,69 tỷ đô la Mỹ. Báo cáo hàng năm của Cuba gửi cho Liên Hiệp Quốc thể hiện chi tiết tính toán này. Đây là con số rất lớn đối với một nước có GDP bình quân giai đoạn 1970 – 2014 là 31,7 tỷ đô la Mỹ.
Vâng, Castro có vai trò chính yếu đối với những sai lầm và thiếu sót trong nền kinh tế kế hoạch của Cuba. Vâng, hoàn toàn có quan liêu, năng suất thấp, khủng hoảng thanh khoản, nợ nần và nhiều vấn đề khác – nhưng nước nào không có? Castro đã chỉ ra những yếu kém này trong các bài phát biểu của mình trước nhân dân Cuba. Nhưng Tổng thống Correa đã đúng – để đánh giá một cách khách quan di sản của Castro, sự phát triển của Cuba và những cải cách ngày nay, chúng ta không thể vờ như sự phong tỏa của Mỹ (hiện nay vẫn còn dù đã có xích lại gần nhau) là không có tác động đến cơ cấu của nền kinh tế Cuba.
Castro đã chứng kiến gần 11 đời tổng thống Mỹ kể từ năm 1959, nhưng ông không bao giờ sống đủ lâu để để nhìn thấy sự kết thúc lệnh cấm vận của Mỹ. Với những cải cách kinh tế đang được tiến hành và với việc phục hồi quan hệ với Hoa Kỳ, Cuba phải đối mặt với những thách thức mới. Tuần tới, tôi sẽ bắt đầu một nghiên cứu mới ở Cuba để đánh giá sự dẻo dai của cuộc cách mạng trong giai đoạn hậu Castro và thời đại Donald Trump này.

Helen Yaffe
Huỳnh Ngọc Dũng biên dịch
*Helen Yaffe là nghiên cứu viên ngành lịch sử kinh tế, Trường Kinh tế và Khoa học chính trị London.
Nguồn: Helen Yaffe, “Cuba is poor, but who is to blame – Castro or 50 years of US blockade?”, The Conversation, 02/12/2016.
* Phát biểu của chủ tịch Fidel trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 9/1973. Ông cũng là vị nguyên thủ nước ngoài đầu tiên và duy nhất thăm vùng giải phóng miền Nam khi chiến tranh chưa kết thúc. Trong những năm tháng khó khăn nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, câu nói của Fidel đã làm rung động bao trái tim của nhân dân Cuba và nhân dân Việt Nam, cũng như hàng triệu người có lương tri trên thế giới. Hình ảnh vị Tổng Tư lệnh với bộ quân phục màu xanh ôliu đứng trên nóc một lô cốt cũ của địch, phất cao lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, là sự cổ vũ vô cùng to lớn đối với đồng bào chiến sĩ ta lúc đó.

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018

Chết Sống

Sanh như mặc áo,
Chết tợ cởi trần,
Từ xưa đến nay,
Không đường nào khác.

- Trần Thánh Tông -


CHẾT SỐNG
Lâu nay đa số người thường nói là sống rồi tới chết, con người có sanh ra rồi có tử, là có sống chết. Nhưng ở đây, quý thầy nói ngược lại là Chết Sống.

I. CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ ĐIỂM CUỐI.
Bởi vì người thế gian thường nói sống chết, rồi hiểu sống là điểm khởi đầu và chết là điểm cuối của cuộc đời. Nghĩa là cho chết là hết, là điểm cuối, là xong cuộc đời. Do nghĩ như vậy nên người khi sống lo tranh thủ hưởng thụ để chết không kịp, cũng từ quan niệm đó khiến người tạo nhiều nghiệp dữ không thể lường được.
Nhưng trong Phật pháp thì không phải vậy, dạy người tu hành luôn nhớ chết để rồi sống, chứ không phải chết là hết. Nghĩa là chết đời này để sống một đời kế tiếp, tức đời này được coi như là một trạm chuyển tiếp chứ không phải là điểm cuối cùng, rõ ràng là như vậy.
Chính cuộc sống của chúng ta hiện tại đâu phải đây là lần đầu tiên có mặt trên cuộc đời này. Cuộc sống hiện tại của chúng ta hiện nay là tiếp nối của quá khứ. Như vậy, cuộc đời hiện tại là trạm chuyển tiếp, từ trạm này chuyển tiếp qua trạm vị lai. Nếu như đời quá khứ con người không có chết thì làm sao có đời hiện tại này, cũng như đời hiện tại này không có chết thì làm sao có đời vị lai. Thấu rõ được lẽ thật đó, thì chết là để sống chứ không phải là điểm cuối cùng.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải chết như thế nào để sống không có hối tiếc, bởi đã biết rõ sự chết của ta không phải là điểm cuối cùng. Thiền sư Từ Đạo Hạnh khi sắp viên tịch có bài kệ để nhắc nhở môn đồ:

Thu lai bất báo nhạn lai qui,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.

Dịch:
Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay
Cười lạt người đời luống xót vay.
Thôi! hỡi môn đồ đừng lưu luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.

Khi Ngài sắp tịch thì môn đồ buồn khóc lưu luyến vì phải mất thầy, nên Ngài nhắc nhở.
“Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay” Mỗi lần mùa thu về thì đâu có hẹn nhạn bay cùng, tuy không hẹn mà nó cũng đến. Cũng như cái chết khi đúng thời điểm thì nó phải chết chứ không thể hẹn được.
“Cười lạt người đời luống xót vay” Người đời không biết được lẽ thực đó cho nên thấy chết thì buồn xót, thương khóc.
Vì thế, Ngài nhắc nhở: “Thôi! hỡi môn đồ đừng lưu luyến, Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.” Bởi vì không phải mới lần đầu thầy chết, mà thầy đã hóa biết bao lần như thế rồi. Lần này chỉ là một lần trong bao lần mà thầy hóa lại thôi. Cái chết hiện giờ rồi sẽ lại hóa nữa, nào phải là lần đầu thầy chết. Ngài nhắc nhở khuyên môn đồ đừng lưu luyến, buồn khóc.
Hiểu như vậy thì khi chết đừng có buồn, bởi chết là để sống mà!. Con người cứ nghĩ chết là hết, là cuối cùng, là mất hết cả cuộc đời cho nên buồn tiếc, thương khóc đủ thứ, đây chúng ta hiểu chết để sống thì không phải lo mất.
Thế nên, khi Lục Tổ báo tin Ngài sắp tịch, thì môn đồ đều khóc lóc, chỉ có ngài Thần hội là không khóc. Lục Tổ bảo: “Tiểu sư Thần Hội lại được thiện ác bình đẳng, chê khen chẳng động, buồn vui chẳng sanh, ngoài ra thì đều chẳng được”. Tức là ngài Thần Hội lúc đó còn trẻ cho nên Tổ gọi là Tiểu sư, và khen là được thiện ác bình đẳng, khen chê, buồn vui gì cũng chẳng có động, còn mọi người thì không được vậy.
Tổ bảo tiếp: “Vậy thì mấy năm nay ở trong núi trọn tu đạo gì? Nay các ông buồn khóc là lo cho ai, nếu lo cho ta chẳng biết chỗ đi thì ta đã tự biết chỗ đi, nếu ta không biết chỗ đi thì trọn chẳng báo trước cho các ông. Các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức chẳng nên buồn khóc”. Lục Tổ quở là mấy ông ở trong núi tu đạo gì mà đến giờ vẫn giống như người thế gian cũng buồn khóc. Mà các ông khóc vậy là khóc cho ai? Nếu mà khóc cho ta, lo cho ta, sợ ta chết không biết chỗ đi, thì chính ta đã biết chỗ đi nên báo trước cho các ông là ta đi, vậy thì các ông buồn khóc cho ta thì không phải rồi! Như vậy chính là các ông thiếu tu. Tức là nhắc nhở mọi người phải khéo tu hành, đừng giống như người đời.

Bởi người đời không thấu được nghĩa thật của sự chết sống, nên khi cái chết đến là buồn khóc lưu luyến, còn hiểu được nghĩa này thì đâu có buồn khóc như vậy, đó là nhắc cho mọi người khéo gắng tu hành thêm. Như vậy, hãy nhớ cái chết không phải là điểm cuối cùng, và chết không phải là hết, mà chết là để sống, đó là ý nghĩa chân thật.

II. HÃY CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT.
Bởi vì không phải chết là hết, nên phải chuẩn bị cho cái chết, chết để sống lại. Tức là phải chuẩn bị cái chết như thế nào, để khi chúng ta sống trở lại tốt đẹp hơn, thì mới có ý nghĩa. Giống như bỏ xe cũ thay xe mới, thì phải thay xe mới tốt hơn, đừng bỏ xe cũ mà thay xe mới lại xấu hơn xe cũ, là không hay.
Mà muốn được thay xe mới tốt hơn thì phải sao? Ngay đây phải lo chuẩn bị cho có vốn liếng đầy đủ. Tức là trong cuộc sống hiện nay chúng ta phải tạo đời sống tốt lành, tạo những thiện nghiệp, đó là chuẩn bị vốn liếng, để chuẩn bị cho cái chết an lành rồi khi sống lại được một đời sống tốt đẹp hơn, vì có chuẩn bị nên thay xe mới tốt hơn.
Nếu như ngay đây mà chúng ta không chuẩn bị để cho nó hư cũ, lại cũng không có tiền mua xe mới thì khi chết rồi gặp cái gì bám đại vào đó là rất nguy hiểm. Do đó, ngài Hàn Sơn hóa thân của Bồ Tát Văn Thù có bài thơ nhắc nhở người đời:
Đời trước quá ngu si,
Chẳng được ngày nay độ,
Ngày nay nghèo thế này,
Thảy là đời trước tạo.

Tức là Ngài nói ngày trước con người vì quá ngu si mê lầm, không có gì để độ ngày nay. Cũng như người đời nay nghèo là sao. Nghèo có hai: Nghèo về tiền bạc tài sản, mà cũng nghèo về công đức, không có phước đức. Ngài nói sở dĩ ngày nay nghèo thế này thảy do đời trước tạo, tức tạo cái nhân xấu.
Đời nay lại chẳng tu,
Đời sau vẫn như cũ,
Hai bờ đều không thuyền,
Mênh mông khó cứu độ.

Đã biết đời nay chúng ta nghèo là do đời trước thiếu vốn tu, đời nay lại chẳng tu thì đời sau vẫn như cũ, như cũ là còn tốt, nhiều khi nó không như cũ mà còn xuống thêm nữa. Ngài lại nói giống như hai bờ đều không có thuyền, đời trước không có, đời nay không có thì đời sau lấy cái gì để cứu độ mình đây, rất là nguy hiểm, đó là thiếu chuẩn bị! Cho nên, mỗi người phải sáng suốt chuẩn bị đừng để khi chết hoảng hốt, sợ sệt rồi chới với không có điểm tựa, không biết đi đâu thì nguy hiểm! Tức là không có nghiệp lành để làm vốn liếng, làm cái phao để mình bám trong biển sanh tử mênh mông này thì thật là đáng lo đáng sợ. Nên, người hiểu đạo phải chuẩn bị lo trước để đi xa.

Có một bậc thầy Tây Tạng khai thị cho mọi người: “Học để biết chết như thế nào, tức là học để biết sống như thế nào. Mà học để biết sống như thế nào là học cách để hành động, không những trong kiếp này mà còn trong nhiều kiếp sắp đến. Để chuyển hóa bản thân thật sự, và để được tái sinh như là một người được chuyển hóa để giúp đỡ những người khác, là thật sự giúp đỡ thế giới một cách có tác động mạnh nhất.”
Cho nên, học chết tức là học sống, mà học sống là sao? Tức là học cách để chúng ta hành động ngay trong đời sống này, để làm sao chuyển hóa bản thân tạo nghiệp tốt lành, để khi tái sanh được chuyển hóa thành một người tốt đẹp, vừa lợi ích cho mình mà cũng vừa giúp đỡ cho mọi người, để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, một cách sống tích cực hơn.
Như vậy, học chết tức là học để biết sống ngay cuộc sống hiện tại đây, sống làm sao cho thật sự đúng ý nghĩa sống, để đưa đến một cái chết an lạc, một chuyển tiếp tốt đẹp và cuộc sống tích cực. Cho nên, học Phật đâu phải là tiêu cực, có người nói học Phật chỉ dạy về vô thường, sanh tử khiến nghe buồn, tiêu cực quá! Nhưng ngược lại, đây là một cách giúp cho người sống để vừa chuyển hóa đời sống của mình, mà vừa làm lợi ích cho mọi người xung quanh. Thế nên, đó là cách sống rất là tích cực chứ đâu có tiêu cực, chỉ có người chưa hiểu rõ đạo Phật mới nói là tiêu cực. Hiểu kỹ như vậy rồi, ngay đây chúng ta chuẩn bị để đời sống thật là có ý nghĩa, sống đúng ý nghĩa sống.

Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng nói: “Là một Phật tử nên tôi xem cái chết là một chuyện bình thường, một thực tế mà tôi chấp nhận sẽ xảy ra, đến chừng nào tôi vẫn còn lưu lại trên cõi trần tục này. Vì biết rằng chết là điều không thể tránh, tôi thấy không có lý do gì để lo âu về nó”. Phật tử là con Phật, nên quý vị mang tên Phật tử là ý nghĩa rất lớn chứ không phải tầm thường, chính Ngài cũng xưng Ngài là Phật tử. Tức là còn có mặt ở đây là chấp nhận mình phải chết, đó là chuyện phải đến chứ không thể nào tránh khỏi được. Biết đó là điều không thể tránh thì không có lý do gì phải sợ phải lo. Chúng ta có sợ chết thì cũng phải chết, vậy tại sao phải sợ? Nếu sợ mà khỏi chết thì cũng nên sợ, còn sợ rồi cũng phải chết thì sợ để làm gì? Cho nên Ngài nói không có lý do gì để lo âu về nó.
“Tôi thường nghĩ đến cái chết giống như là thay đổi quần áo, khi chúng cũ và mòn rách, hơn là một kết thúc tối hậu nào đó”. Ý nói chết không phải là điểm cuối cùng, không phải chết là hết.
“Song cái chết không thể đoán trước được, ta không biết nó xảy ra khi nào và bằng cách nào. Vì vậy điều hợp lý duy nhất là hãy thực hiện vài sự phòng xa nhất định nào đó, trước khi cái chết thật sự xảy đến, đó là người sáng suốt”. Tức là biết chắc chết là điều mà ta phải đi đến không thể tránh khỏi, bắt buộc phải chấp nhận thôi. Ngài nói tuy đã biết như vậy nhưng lại không biết nó sẽ đến khi nào, lúc nào, và chết bằng cách nào. Nên điều hợp lý duy nhất là hiện tại mỗi người phải chuẩn bị phòng xa, vài điểm nhất định nào đó để khi cái chết đến, nhờ có chuẩn bị trước nên dễ đối phó, đó là người sáng suốt.

Qua đây, chúng ta thấy những bậc hiểu đạo thì luôn luôn nhắc nhở mọi người như vậy, phải lo phòng xa chuẩn bị trước, để khi đến giây phút đó không có bở ngỡ. Còn không chuẩn bị gì hết khi cái chết đến bất ngờ rồi hoảng hốt, sợ sệt lúng túng đủ thứ, giống như việc không ngờ. Vì vậy, ngay đây mỗi người chuẩn bị cho mình là vừa, đừng nói là hiện giờ tôi còn khỏe mạnh để sang năm, hoặc chục năm nữa chuẩn bị cũng không muộn. Không phải vậy, ngay đây chuẩn bị là vừa rồi chứ không có muộn màng gì hết, chuẩn bị để chúng ta có một cái chết hợp đạo lý, hơn là cái chết tầm thường than khóc theo thế gian. Nghĩa là, chết cho xứng đáng với tinh thần của người học đạo, chết với một cái chết thật có ý nghĩa.

III. NHỮNG BÀI HỌC ĐỂ CHẾT.
1- Chết thiếu chuẩn bị: 
Có một phụ nữ người Mỹ, bà này đến gặp vị thầy Tây Tạng ở Nữu Ứớc, khi vào phòng ngồi trước mặt Ngài, bỗng bà xúc động khóc òa, nói: “Bác sĩ bảo rằng tôi chỉ còn sống vài tháng nữa, vậy thầy có thể nào giúp tôi không? Tôi đang chết, đang chết”. Tưởng đâu như vậy thì Ngài dùng cách an ủi cho bà bớt khổ, không ngờ Ngài phát cười khúc khích, một lúc Ngài nói: “Đó, bà thấy trong chúng ta ai cũng đều đang chết cả, chỉ là vấn đề thời gian, có một số người chết sớm hơn những người khác, thế thôi !”
Ngài giúp cho bà thấy, chết là việc phổ thông cho tất cả chứ không phải chỉ riêng bà. Nên Ngài nói là bà nên nhìn thấy tất cả mọi người, ai cũng đang và sẽ chết cả, chỉ có vấn đề thời gian là chết chậm chết mau thôi. Vì vậy, mà có một số người chết sớm hơn người khác. Nhưng kết lại là ai rồi cũng phải chết.
Bởi bà tưởng có một mình bà chết, cái chết chỉ áp đặt lên bà, nhưng đây Ngài nói rõ, chết là cái phổ thông cho tất cả. Tức là nó được chia đều, mỗi người đều có lãnh phần hết, chứ không phải riêng ai. Vậy thì chúng ta hết lo, có người chia phần bớt cho mình rồi, đâu phải riêng mình chịu, mà người này lãnh phần, người kia lãnh phần, mình cũng lãnh phần nhỏ trong đó. Chúng ta cũng bớt lo, lấy lại chút bình tỉnh là nhớ cái chết này được chia đều hết. Sau đó, Ngài mới nói về cái chết, giải thích về cái chết, giúp cho bà chấp nhận cái chết, đó là cách khéo léo của Ngài.

Để chúng ta thấy tình trạng của đa số người sống mà không biết chết, không lo chuẩn bị trước, cho nên bất chợt phải giáp mặt với nó, phải đối diện với cái chết thì không tự chủ được, mất bình tỉnh. Quý vị nên nhớ rằng dù cho tài trí, thông minh số một trên thế gian đi nữa cũng không thể giải quyết được việc đó, cũng không thể cứu mình khỏi chết được. Lúc đó thông minh cũng không cứu nổi nên phải có chuẩn bị, tức là phải có “pháp” để sống, vì ngay lúc đó không có thời gian để lý luận thế này thế kia.
Như vậy, mọi người cần có chuẩn bị, bởi vì cái chết bất ngờ đến mà chúng ta thiếu sự chuẩn bị, khi phải đối diện với cái chết, thì sẽ rất đau khổ, mất bình tỉnh, chới với!

2- Chết có chuẩn bị: 
Như vua Trần Thánh Tông đời Trần, làm vua nhưng cũng học đạo tham thiền, có tu hành, có chuẩn bị. Tuy đủ thứ bận rộn của một ông vua, nhưng nhờ có tu tập pháp, có pháp làm điểm tựa, cho nên khi chết có tự chủ, có sức bình tỉnh đối diện với cái chết.
Quý vị đừng nghĩ tôi bận rộn quá không có thời gian tu, ông vua còn có thời gian thì mình còn có thời gian, chỉ là mình muốn hay không. Trong Thánh Đăng Lục ghi: Khi vua bị bệnh sắp băng hà, Thượng sĩ Tuệ Trung gởi thư đến thăm, vua mới viết vào cuối trang giấy đáp lại:

Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẫm,
Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô.

Tức là hơi nóng đang đốt thân này ra mồ hôi ướt đẫm, nhưng không dính gì tới chiếc khố mẹ sanh của Ngài. Tức là Ngài thấy rằng lửa vô thường, lửa sanh tử đốt thân này bức bách như vậy, nhưng chính Ngài thấy không có dính dáng gì hết. Gọi là không có ướt gì tới khố mẹ sanh, tới con người chân thật của Ngài, nó chỉ đốt là đốt thân này thôi, cho nên không có sợ.

Quý vị thấy một ông vua mà tu rất hay. Vua thấy cái chết không có dính dáng gì tới ông. Và đến lúc bệnh nặng vua thường lấy ngón tay gõ gõ vào chiếc gối, giống như là có sở đắc, điều gì trong nội tâm, chốc lát vua đòi bút để viết bài kệ để lại:

Sanh như mặc áo,
Chết tợ cởi trần,
Từ xưa đến nay,
Không đường nào khác.

Con người được sanh ra giống như mặc áo, chết giống như cởi trần, từ xưa đến nay là như vậy. Ngài thấy sống chết giống như mặc áo, cởi áo đâu có dính dáng gì tới Ngài, đó là bình tỉnh không có lo sợ gì hết. Như vậy vua thấy mình đâu có chết, lửa vô thường tuy đốt cháy hừng hực, đốt thân xác đẫm mồ hôi này, nhưng cũng không dính dáng gì đến con người thật của Ngài. Chúng ta thấy ông vua hiểu đạo lý, thấy được đạo lý và cũng có sức sống chứ không phải là nói suông, nên thấy việc chết sống như mặc áo cởi áo, không có gì để lo lắng. Đó là cái chết có sự chuẩn bị kỹ, một cái chết thật có ý nghĩa, một cái chết rất sáng ngời, chết như vậy thì Ngài đâu có chết!

Có câu chuyện về một hành giả tu hành sáng đạo. Khi sắp chết ông bị bệnh vài hôm, bác sĩ đến xem mạch biết ông sắp chết, nhưng bác sĩ do dự không biết là có nên nói sự thật hay không. Bởi theo kinh nghiệm của người bác sĩ thì có nhiều người bệnh rất sợ chết, nên vẻ mặt của bác sĩ trông nghiêm trọng buồn bã. Nhưng ông giống như một đứa trẻ hồn nhiên, năn nỉ bác sĩ cho biết tình trạng sức khỏe như thế nào. Cuối cùng bác sĩ cũng đành nói thật, vừa nhẹ nhàng an ủi: “Hãy cẩn thận, thời gian đã đến”. Nói rất khéo. Vừa nói xong, bác sĩ ngạc nhiên thấy vẻ mặt ông tươi hẳn lên, ông nói: “Thật vậy sao! Ồ thật là một tin mừng.” Ngay lúc đó, ông nhìn lên trời rồi chết thật nhẹ nhàng!!!

Đó là chết có chuẩn bị, nghe tới chết là mừng, cho đó thật là một tin mừng vì sớm bỏ được thân xác này. Nên ông chết đâu có đau khổ, mà là một cái chết sáng ngời, đúng ý nghĩa. Đó là những bài học để chết, phải nhớ rõ chết là để sống, chứ không phải chết để hết, để mất, luôn nhớ kỹ điều đó.

- Một điểm cần nhớ nữa là, cái chết được chia đều cho tất cả, không phải chỉ riêng ai, ai cũng có phần và chắc chắn như vậy. Nhưng có điều không biết cái chết sẽ đến như thế nào? Cho nên, hiện tại tốt nhất chúng ta phải phòng xa chuẩn bị vài điều kiện cần thiết phòng khi cái chết đến, bằng cách chúng ta phải lo học “pháp” và có “pháp” để sống, tức là sống với pháp. Đó là phòng xa, là chuẩn bị, tức là tạo vốn liếng để khi nó đến chúng ta cũng có sự bình tỉnh, tuy chúng ta chưa có thực sự giải thoát hoàn toàn, nhưng có pháp làm chỗ nương, bởi vậy ngay đây mỗi người chuẩn bị là vừa.
Chúng ta học đạo là để thực hành, chứ không phải để tăng thêm kiến thức. Dù người hiểu đạo cách mấy đi nữa mà không có thực hành, thì cũng không đi đến đâu, nếu khi cái chết đến cũng hoảng sợ như thường. Đừng nghĩ rằng tôi hiểu đạo sâu nên khi cái chết đến không sao! Không phải vậy đâu, vì hiểu là một chuyện mà thực hành là một chuyện.
Thí dụ nói: “Tôi giải thoát”, nói thì dễ dàng và ai cũng có thể nói được, nhưng thực sự có giải thoát hay không là chuyện khác. Thì đây cũng vậy, nói tôi hiểu đạo thì đúng là đã hiểu, nhưng nếu chưa từng thực hành, chưa thực sống, chưa thường quán chiếu và chuẩn bị cho mình, thì khi đến đó những cái hiểu này không thể dùng được. Bởi vì lúc đó đâu còn thời giờ để chúng ta nhớ đến câu kinh, không có thời giờ để chúng ta nói lý. Khi đó những nghiệp đã tạo liền quay lại đủ hết thành bộ phim trong tâm, khiến tinh thần càng rối loạn. Do không chuẩn bị, cũng chưa từng quán chiếu thực hành về cái chết, lúc đó chúng ta nhớ cái này nhớ cái kia, rồi khi sắp buông thân này không biết sẽ đi đâu, trong lòng bị đủ thứ sợ hãi, đủ thứ chi phối.
Vì thế, khi có sự chuẩn bị thì thời điểm ấy tới chúng ta liền biết, không thấy lạ, tâm có sự bình tỉnh, mà có sự bình tỉnh là có pháp, thì chúng ta chết được an lành hơn. Chính mình lo chuẩn bị cho mình là trọng yếu nhất, chứ đừng nghĩ đến lúc đó có con cháu lo cầu siêu cho mình, việc đó đâu chắc chắn. Nếu con cháu thực tâm vì mình cầu siêu thì đôi khi cũng có sự cảm ứng; còn như chúng làm dối lấy lệ, hoặc để có tiếng, thì nhiều khi còn nguy hiểm thêm nữa. Lúc đó, quý vị ở bên kia biết nó làm dối cho bà con khỏi chê trách, thì quý vị không vui mà nói không được thì càng tức nữa, mà tức thì đi bậy. Hoặc là, chúng ta chết nhằm ngày trùng thì chúng ếm không cho về nhà, lúc đó càng tức hơn. Nói như vậy để cho tất cả đều ý thức để lo chuẩn bị tinh thần đạo lý đầy đủ, khiến khi ra đi an lành là tốt nhất.

IV. TÓM KẾT.
Đời người ai rồi cũng đi đến cái chết không thể tránh khỏi, đó là điều chắc chắn, đó là điểm hẹn bắt buộc cho tất cả những ai có mặt trên cõi đời này. Nếu đã như vậy thì chúng ta phải đi qua cuộc đời như thế nào đây để cho tốt, cho có ý nghĩa. Chúng ta hãy nhớ kỹ, đây chỉ là một trạm chuyển tiếp, chứ không phải là điểm cuối cùng. Cho nên, cần phải nhận biết cho rõ và để chuyển xe cho tốt, đó là cách của người học Phật biết sống, sống để đi qua cái chết và chết để sống. Vậy, chết để mà sống chứ không phải chết là hết.

Như bài kệ của Thiền sư Mãn Giác khi Ngài sắp tịch dạy chúng:

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai,
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Ý bài kệ nói, người ta thường nói xuân đến rồi xuân đi, đó là theo thứ tự của thế gian có đến rồi mới có đi. Nhưng ở đây Sư nói ngược lại “Xuân khứ bách hoa lạc”, tức là xuân đi trăm hoa rụng, rồi “Xuân đáo bách hoa khai”, tức là xuân đến trăm hoa nở, giống với ý nghĩa của bài giảng này. Sư không nói là xuân đến rồi xuân đi, mà lại nói xuân đi rồi xuân đến. Bởi vì Ngài sắp tịch, tịch tức là đi, nhưng đi không phải là hết, giống như Ngài Từ Đạo Hạnh nói “Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay”, sự đi đó cũng là một trạm chuyển thôi.
Bài kệ nói xuân đi thì hoa rụng, nhưng mà xuân đến hoa nở thì đâu phải hết. “Sự trục nhãn tiền quá” là việc đời cứ trôi qua trôi qua trước mắt, không đứng vững. Nhưng lâu lâu nhìn lại thì “Lão tùng đầu thượng lai”, nhìn lại thì tóc trên đầu đã bạc. Tức là sự vô thường nó đeo đuổi con người không có bao giờ dừng, muốn nó dừng cũng không được.
Sống ở đời, nhiều người gặp hoàn cảnh an vui, sung sướng tốt đẹp thì muốn hưởng cho lâu, muốn kéo cho nó dài, nhưng nó vẫn trôi qua không đứng lại. Rồi gặp những hoàn cảnh buồn khổ, đau đớn muốn cho nó trôi qua mau, nhưng nó vẫn cứ đều đều không chịu đi mau, tức là chúng ta không làm chủ được nó.
Đúng như lời Phật nói, cuộc sống vô ngã, không có chủ. Nếu thật sự có ngã, có chủ thì khi chúng ta ra lệnh cho nó, điều này không thích cho qua mau, còn điều này thích hãy từ từ bớt lại, nhưng mà không được, không như ý. Ngay bản thân chúng ta cũng vậy, không thể làm chủ, tuổi đời vẫn trôi đều, không chịu dừng để lâu lâu hãy già, hoặc đừng có chết sớm… Chúng ta hoàn toàn không thể ra lệnh gì được hết, cho nên quán kỹ thân người thì đúng là vô ngã.

Nhưng nhiều người không hiểu được đạo lý, cứ tưởng có cái ngã thật là mình và mình làm chủ thật sự, nên khổ vì nó, muốn mà không được thì khổ. Nhưng với người hiểu đạo thì cuộc đời không phải trống rỗng như vậy, cho nên Thiền sư nói “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận”, đừng có bảo rằng mùa xuân tàn thì hoa rụng hết, nên nhớ rằng “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, tức là đêm hôm qua trước sân vẫn còn cành mai.
Chúng ta thấy Sư dùng từ rất có ý nghĩa và cũng rất là khéo léo. Sư không nói là còn một chùm mai mà nói là còn một cành mai, rất là hay, đâu phải dùng tùy hứng. Nếu nói còn chùm mai thì nó vẫn rụng nữa, nhưng nói còn cành mai thì nó vẫn còn đó, rồi tới mùa xuân hoa tiếp tục nở nữa, rất là ý nghĩa. Như vậy, ngay trong cái vô thường vẫn còn có cái không mất, nếu nhận và ứng dụng được cái đó, là người khéo sống. Người học đạo phải thấy được ý nghĩa sâu xa như vậy, cho nên nói Chết Sống là đúng ý nghĩa.
Hiện tại chúng ta cần sáng suốt để sống, để biết lối đi cần nên đi, đừng để mờ mờ mịt mịt. Có bài thơ trong quyển Tự Truyện Năm Chương của Phật giáo Tây Tạng, ý nhắc nhở mọi người khéo sống để chuẩn bị cho mình.

Tôi đi xuống đường phố,
Có một lỗ sâu bên vệ đường,
Tôi rớt vào đó,
Tôi chới với vô phương.

Tức là tôi đi xuống đường phố, có một lỗ sâu bên vệ đường, tôi rớt vào đó chới với vô phương, không có cách gì chống đỡ. Đó là muốn nói đến người sắp chết mà không có chuẩn bị trước, cái chết bất ngờ đến giống như rớt xuống hố thành ra vô phương không có cách gì chống đỡ.

Tôi đi xuống cũng con đường ấy,
Có một lỗ sâu bên vệ đường,
Tôi làm bộ như không trông thấy,
Tôi lại rớt như thường,
Tôi không ngờ mình ở ngay chỗ cũ,
Nhưng đó đâu phải lỗi tại tôi,
Mất nhiều thời gian mới hòng ra khỏi.

Trường hợp này cũng đi xuống con đường đó, rồi cũng gặp lỗ sâu bên vệ đường, nhưng tôi làm bộ không trông thấy nên cũng bị rớt xuống đó. Trường hợp này không phải làm bộ là khỏi rớt, nên nói không ngờ tôi cũng rớt ngay chỗ cũ, tức là cũng phải chết.

Tôi cũng lại đi con đường cũ,
Có một lỗ sâu bên vệ đường,
Tôi thấy nó vẫn đang ở đấy,
Và tôi vẫn rơi vào, đó là thói quen,
Mắt tôi vẫn mở, tôi biết mình ở đâu,
Đấy là lỗi tại tôi, tôi liền ra tức khắc.

Trường hợp này. Cũng đi con đường đó, cũng hố sâu bên vệ đường đó, tôi thấy nó rõ ràng nhưng tôi vẫn rơi, đó là thói quen nên phải rơi xuống đó. Nhưng tôi có thấy, tôi biết tức là có chuẩn bị. Mắt tôi vẫn mở, rồi tôi biết mình ở đâu, rất là sáng suốt bình tỉnh. Tự biết đấy là lỗi tại tôi, tức là tôi vào trong này rồi tôi phải đi trong đó thôi, tại tôi sanh vào đây. Nhờ tôi có sáng suốt, cho nên tôi liền ra khỏi tức khắc, đó là có trí tuệ. Tuy có trí tuệ nhưng còn chưa hay.

Tôi đi xuống con đường phố cũ,
Có một lỗ sâu bên vệ đường,
Tôi đi quành qua nó,
Tôi đi xuống bằng con đường khác.

Đó là những người thật sự đạt đạo, có đường đi, chọn đường đi. Trường hợp trên là biết nhưng chưa thể tự chọn đường được, còn đây là chọn đường đi. Cũng đi con đường phố cũ đó, tức là có sanh ra, có mặt đây rồi thì cũng phải chết. Nhưng bây giờ thì tôi đi quành qua nó, tức là tôi có con đường đi, đó là những bậc đạt đạo có đường đi của mình.
Quý vị thấy trong bốn con đường đó, quý vị chọn con đường nào? Con đường cứ đi rồi rớt xuống đó, chới với vô phương. Con đường làm bộ làm ngơ không thấy không biết gì hết để rớt xuống, rồi mất thời gian mới ra khỏi, đó là cũng có chút vốn liếng. Con đường mắt thấy rõ nên sáng suốt biết rõ chỗ ở của mình, ngay đó tức ra khỏi. Còn con đường nữa thì quành qua đi. Đó là bốn con đường để mỗi người tự chọn.
Bởi con đường đâu có ai chọn thay cho chúng ta được, thầy cũng không chọn thay cho chúng ta được, cha mẹ cũng không chọn thay cho chúng ta được, mà chính ta phải chọn, chọn để đi chứ đâu có ai đi thế được. Đó là ý nghĩa phải nhớ, việc này không ai đi thế cho mình, nên mọi người phải khéo chọn lối đi để đi cho có ý nghĩa, gọi là khéo biết đường đi. Còn nếu chưa được như vậy, thì cũng được niềm tin an ổn để mình đi trong an lành, tức là có niềm tin với pháp để nương tựa mà đi. Khi chưa chọn được con đường tốt thì chúng ta cũng có chỗ nương, có niềm tin đối với pháp để đi theo pháp, như vậy cũng tương đối, chứ đừng có để rớt rồi vô phương cứu vớt.

Cũng như câu chuyện ông Trưởng giả Cấp Cô Độc, trong kinh kể ông là vị hộ pháp bậc nhất thời Phật. Trưởng giả thường đến nghe Phật nói pháp, khi được tin ông bệnh nặng gần lâm chung thì Tôn giả Xá Lợi Phất với Tôn giả A Nan liền đến thăm. Ông Cấp Cô Độc đang nằm trên giường bệnh, hai Tôn giả ngồi trên ghế bên cạnh giường, biết ông không còn sống được bao lâu Tôn giả Xá Lợi Phất nhắc nhở: “Ông Cấp Cô Độc, ông đã sống một cuộc đời cao thượng và hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho giáo pháp. Trong buổi thuyết pháp vừa qua tại tinh xá Kỳ Hoàn, Đức Thế Tôn đã tán thán công đức của ông như thế. Mọi việc đáng làm ông đã làm trong suốt cuộc đời, giờ đây ông nên bình tỉnh lắng nghe tôi nói và làm theo”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hướng dẫn ông quán tưởng để chuẩn bị cho cái chết. Tôn giả bảo: “Này ông Cấp Cô Độc, ông nên quán như sau: Mắt không phải là tôi, tai không phải là tôi, mũi, lưỡi, thân cũng không phải là tôi”. Tức là quán mắt tai mũi lưỡi này không phải là mình để buông không có bám luyến nó.
Đợi cho ông quán tưởng xong, Tôn giả Xá Lợi Phất nói tiếp: “Ông nên tiếp tục quán tưởng như sau: “Những gì tôi thấy không phải là tôi, những gì tôi nghe không phải là tôi, những gì tôi ngửi không phải là tôi, những gì tôi nếm, tôi xúc chạm cũng không phải là tôi”. Chúng ta thấy các cảm xúc từ các giác quan là mình, nhưng ở đây Tôn giả dạy ông quán chiếu những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi ngửi là không phải mình, đây là nó lệ thuộc vào trong sáu cửa này. Nếu thực là tôi thấy, thực là tôi nghe, thì nó không có chết, không mất.
Lát sau, Tôn giả chậm rãi nói tiếp: “Ông nên quán tưởng rõ ràng như thế này: Mắt tai mũi lưỡi thân ý không phải là tôi, sắc thinh hương vị xúc pháp không phải là tôi, thấy nghe ngửi nếm xúc chạm suy nghĩ cũng không phải là tôi. Vì nếu mất một hay tất cả mười tám thứ đó, thì tôi vẫn là tôi không bị sứt mẻ gì, tôi không bị ràng buộc và giới hạn trong những yếu tố ấy”. Tức là những thứ đó thuộc về vô thường, cho nên nó mất mà tôi không mất. Những thứ đó là nhân duyên, mắt đối với sắc thì mới có thấy, nói tôi thấy sắc, nếu không có sắc thì cái thấy đó là mất liền. Cho nên cái thấy đó vẫn là nhân duyên đối đãi, chưa phải thật là tôi. Nếu thật tôi thì dù có sắc hay không có sắc, có trần hay không có trần, có cảnh hay không có cảnh, lúc nào nó cũng phải thấy, còn cái này thuộc về nhân duyên đối đãi vô thường, nên chưa phải thật.
Tôn giả nói một hai cái trong những thứ này mất thì tôi vẫn là tôi, tôi không bị sứt mẻ, không bị ràng buộc và giới hạn trong những yếu tố ấy. Cho nên quán những thứ đó không phải là tôi, buông hết không bám, thì không có gì phải quyến luyến, vướng mắc.
Ngưng một lúc, lại nói tiếp: “Ông nên quán tưởng như thế này: Thân sắc này không phải là tôi, cảm giác đau đớn này cũng không phải là tôi, rồi sự suy nghĩ này cũng không phải là tôi. Sự biến đổi của thân xác và tư tưởng không can hệ gì đến tôi. Sanh tử không chạm được tới tôi, sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi mất, tôi mỉm cười biết rằng cái tôi chân thật chưa hề sanh cũng không bao giờ diệt”. Thân xác biến đổi, rồi cảm giác đau đớn cũng là vô thường. Lúc trước nó đâu có bây giờ nó có, đó là mới sanh, trải qua thời gian rồi nó cũng mất nên vô thường không phải tôi. Những tư tưởng suy nghĩ cũng vậy, cũng vô thường không phải là tôi, cho nên nó không can hệ gì tới tôi.

Thực tập tới đây ông liền mỉm cười. Mỉm cười tức là đã biết cái tôi chân thật chưa hề sanh cũng không bao giờ diệt. Mỉm cười rồi bỗng nhiên ông khóc, nước mắt chảy đầy hai má ông.

Tôn giả A Nan thấy vậy, mới hỏi: “Ông Cấp Cô Độc, sao ông lại khóc? Ông có nuối tiếc cái gì không? Hay là ông quán chiếu không thành công?”. Ông thưa: “Thưa Thượng tọa! Tôi không có nuối tiếc gì, nhờ đã nhiều lần được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, nên hôm nay tôi quán chiếu rất thành công”. Tức là đã huân tập nhiều, có chuẩn bị cho nên bây giờ quán chiếu dễ dàng, không có khó khăn gì hết.

“Nhưng tôi cảm động quá, vì suốt ba mươi lăm năm được phụng sự Đức Thế Tôn, và gần gũi các vị Thượng tọa mà chưa bao giờ tôi nếm mùi vị giáo lý thậm thâm vi diệu như hôm nay”. Ông xúc cảm khóc là vậy đó, chứ không buồn tiếc cái gì.

Tôn giả A Nan bảo: “Ông Cấp Cô Độc, pháp môn quán mười tám giới phân biệt và quán Bát Nhã này, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ cũng thường được nghe Đức Thế Tôn giảng dạy luôn”. Ông thưa: “Thưa Thượng tọa! Xin Thượng tọa bạch với Phật cho phép giới cư sĩ cũng được nghe để hiểu và thực hành giáo lý thâm diệu này”.

Ông từ trần ngay buổi chiều hôm đó, một cái chết cũng rất là sáng ngời. Tức là ông chết trong niềm tin sâu với Phật pháp, chết trong an lành không có sợ hãi. Nhờ quán kỹ và có chuẩn bị kỹ. Quán kỹ thân xác này không phải mình, những cảm thọ này không phải mình, cho đến những tư tưởng này cũng không phải mình. Rồi mắt, tai, mũi, lưỡi này cũng không phải mình, không có gì là mình thì buông bỏ nó đâu có gì phải tiếc. Vì chúng ta thấy nó là mình cho nên khi bỏ liền thấy tiếc, tiếc cho nên khổ rồi bỏ thì không đành, mà đi thì không được, lúc sắp chết dây dưa nên khó chết. Nhờ quán kỹ như vậy nên bỏ nhẹ nhàng, đi cũng nhẹ nhàng. Đó là có chuẩn bị, gọi là chết trong đạo lý.

Đó là những ý nghĩa chân thật để nhắc cho tất cả luôn ghi nhớ. Như lời Tôn giả Xá Lợi Phất đã nhắc nhở, tức là sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi mất. Tôi mỉm cười biết rằng cái tôi chân thật chưa hề sinh cũng không bao giờ diệt.
Những cái này không phải là tôi, cho nên tôi sẵn sàng buông nó nhẹ nhàng. Còn thấy nó là tôi, chấp nó là tôi, cứ bám hoài không dám buông nên khó chết. Đó là chưa nói đến việc nhớ tiếc của cải, sự nghiệp thì càng lưu luyến buông không nổi rồi cũng khó chết.

Cần quán kỹ như vậy để chuẩn bị cho bản thân có đường đi, có pháp để sống, để đi. Cho nên phải thường xuyên thực tập, thực tập đều đặn để mình chuẩn bị cho mình, đây là bài thực tập suốt đời cho mình, chứ không phải chỉ nghe đây xong rồi thôi.

Để kết thúc, xin nhắc mỗi vị khi nghe, hiểu là phải chuẩn bị cho mình rõ ràng, gọi là thực tập để tạo cho mình một vốn liếng, một cái phao, đừng để khát nước mới lo đào giếng thì không kịp. Vậy thì hôm nay bài tập này là bài tập thực tế nhất, gần gũi nhất, ai cũng phải đi qua con đường này, cho nên phải thực tập để sống có ý nghĩa. Tức là phải thuộc lòng giống như thuộc làu làu, thầy giáo mà có kiểm tra nhắc bất cứ một đoạn nào đó, bắt đọc là mình đọc tiếp liền. Còn ngập ngừng là chưa thuộc làu.

Chúc tất cả chuẩn bị cho tốt để sống thật có ý nghĩa, và chết không hối hận; cũng như chết với đầy đủ niềm tin trọn vẹn nơi pháp, và luôn nhớ kỹ mình chết là để sống.

Thích Tâm Hạnh
Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã