Thứ Năm, 9 tháng 5, 2024

Zhuravli (Đàn sếu) - Mark Bernes

Tôi cứ ngỡ biết bao người lính trẻ

Từ chiến trường xưa đẫm máu không về

Không phải họ nằm yên trong đất mẹ

Mà hóa thành sếu trắng giữa trời kia

 



NGÀY CHIẾN THẮNG

Ngày chiến thắng 9/5 là ngày Lễ được kỷ niệm rất trọng đại ở nước Nga và ở nhiều quốc gia khác. Ở Liên Xô trước đây và ở nước Nga ngày nay, vào dịp này, ngoài các bài hát hào hùng như "Cuộc chiến tranh thần thánh", "Ngày chiến thắng"..., người ta còn hát những ca khúc của một thời lửa đạn, như "Ôi, những con đường", "Đêm đen", "Chiếc khăn xanh", "Chiều hải cảng"..., và không thể thiếu bài "Đàn sếu", bài hát đã trở nên rất quen thuộc với nhiều người Việt Nam chúng ta. "Đàn sếu" da diết như một lời tưởng nhớ đến những người con của Tổ quốc đã vĩnh viễn nằm xuống trong lòng đất mẹ vì Ngày Chiến Thắng. Trái với hình dung của nhiều người, bài hát này không nằm trong bộ phim nổi tiếng "Đàn sếu bay qua", cũng không hề được sáng tác trong thời gian Chiến tranh vệ quốc 1941-1945. Mà nó được sáng tác vào năm 1968, 23 năm sau Ngày chiến thắng. Rasul Gamzatov là nhà thơ nổi tiếng người Avar, Daghestan, một nước Cộng hòa tự trị của Liên xô. Ông được bạn đọc Việt Nam biết đến nhiều hơn qua cuốn "Daghestan của tôi", bản dịch của Phan Hồng Giang (phần dịch thơ của nhà thơ Bằng Việt). Rasul Gamzatov đã viết bài thơ "Đàn sếu”bằng tiếng Avar, sau đó được người bạn cùng học ở trường Đại học là Naum Grebnev chuyển ngữ sang tiếng Nga. Grebnev từng là lính tham gia Cuộc chiến tranh vệ quốc, bị thương 3 lần, do vậy, khi dịch "Đàn sếu”sang tiếng Nga, ông đã có một sự đồng cảm rất lớn với Rasul Gamzatov để có một bản dịch thành công. Năm 1968, bài thơ "Đàn sếu”qua bản dịch của Grebnev xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí "Thế giới mới”(Новый мир). Một ngày, tình cờ ca sĩ Mark Bernes đọc được bài thơ này. Cũng cần nói thêm, Mark Bernes thời gian này rất nổi tiếng khi thể hiện các bài hát chủ đề chiến tranh. Bản dịch đầu tiên khi in trên "Thế giới mới”có 2 dòng đầu tiên như sau: Мне кажется порою, что джигиты, С кровавых не пришедшие полей (Tôi cứ ngỡ bao người lính kỵ binh Từ chiến tường xưa đẫm máu không về) 

Đọc xong bài thơ, Mark Bernes liền gọi điện cho dịch giả Naum Grebnev, nói rằng muốn bài thơ được phổ nhạc. Hai người trao đổi với nhau một số thay đổi nhỏ trong bản dịch, và Grebnev đã đồng ý thay từ "kỵ binh”trong dòng đầu thành "người lính". Sau này, nhà thơ Gamzatov nhớ lại: "Tôi cùng với dịch giả cho rằng đề xuất của Mark Bernes là hoàn toàn hợp lý, đổi từ "kỵ binh”sang "người lính". Khi đó, chiều kích của bài hát sẽ trở nên rộng hơn". Với bài thơ đã có đôi chỗ sửa đổi, Mark Bernes đến gặp nhạc sĩ Yan Frenkel, yêu cầu ông phổ nhạc. Việc phổ nhạc cho bài thơ quả thực không dễ dàng một chút nào, phải mất đến hơn 2 tháng. Yan Frenkel nhớ lại: “Tôi gọi cho Bernes, anh ấy đến ngay, nghe bài hát và... khóc. Anh ấy không phải là người dễ mủi lòng, nhưng không hiếm trường hợp, anh ấy khóc khi gặp một điều gì đó thật sự thích". Mark Bernes ghi âm bài hát "Đàn sếu”trong tình trạng sức khỏe bị suy kiệt. Đây là bài hát cuối cùng trong sự nghiệp ca sĩ của ông.

Nhạc sĩ Iury Rabinovich nhớ lại: “Sau khi nghe phần nhạc, Bernes muốn thu âm bài hát càng nhanh càng tốt. Dường như anh ấy dự cảm được cái chết của mình và muốn bài hát này sẽ đặt dấu chấm cuối cùng cho cuộc đời mình. Việc ghi âm bài hát tiến hành thật gian nan. Nhưng anh ấy đã dũng cảm vượt qua và ghi âm thành công "Đàn sếu". Đúng vậy, đó là bài hát cuối cùng trong đời anh ấy". Bài hát được giới thiệu với đông đảo công chúng qua đĩa hát "Những bản ghi âm cuối cùng", sau khi ca sĩ Bernes qua đời (1969) và nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Mấy năm sau ngày bài hát "Đàn sếu" ra đời, trên mảnh đất các chiến trường xưa, người ta đã dựng các tượng đài, phù điêu với biểu tượng đàn sếu bay. Hình tượng đàn sếu trong bài hát đã trở thành biểu tượng cho sự tưởng nhớ những người đã hy sinh trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Ở Liên Xô người ta đã dựng tượng đài "Đàn sếu”ở Saratov và Leningrad (Saint Peterburg).

Từ năm 1986, trên quê hương Daghestan của Rasul Gamzatov - hàng năm đều đặn tổ chức "Ngày lễ sếu trắng" - Ngày tưởng nhớ những người lính đã hy sinh. 


Phan Việt Hùng




Ngày .. Kỷ Niệm

Nước Nga ko đi xâm lược mà những kẻ xâm lược là quân đội và chính quyền của Putin. Những bộ phim, bài hát, thơ, truyện mà chúng ta từng yêu mến thuộc về LB Xô viết - bao gồm cả Ukraine. Hồng quân thời đó cũng có những phương diện quân Ukraine, Belarusia ... Ngày kỷ niệm chiến thắng này ko chỉ dành riêng cho nước Nga mới thời Putin, mà cho tất cả các dân tộc thuộc liên bang Xô viết trong đó có binh lính và nhân dân Ukraine. 


* Photo: ảnh cựu thiếu tướng trong quân đội Liên Xô, Mykhailo Puhno, 87 tuổi ( công dân Ukraina ) đặt hoa tại đài tưởng niệm chiến tranh được bảo vệ bằng bao cát ở Kyiv, Ukraina, hôm 9/5/2022

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2024

Già & .. Chín Chắn

 GIÀ & .. CHÍN CHẮN

Khác biệt lớn, khác biệt bao la, và đa phần mọi người vẫn còn bị nhầm lẫn về hai thứ này. Mọi người thường nghĩ già nghĩa là chín chắn, nhưng không phải.

Già là việc của thân thể. Mọi người đều già đi, nhưng không nhất thiết họ sẽ chín chắn. Chín chắn là trưởng thành bên trong.

Già đi không phải là điều bạn có thể làm, nó là cách tự nhiên vận hành với cơ thể bạn. Mọi đứa trẻ được sinh ra, khi thời gian trôi qua, đều sẽ trở nên già. Không có gì đặc biệt với nó.

Nhưng chín chắn là cái gì đó bạn phải làm, bạn phải nỗ lực để đạt tới, bạn phải cố gắng để đem đến cho cuộc sống của bạn. Nó tới từ nhận biết. Khi một người già đi với nhận biết đầy đủ, người đó trở nên chín chắn. Già đi cộng với nhận biết, kinh nghiệm cộng với nhận biết, là chín chắn.

Bạn có thể kinh nghiệm cuộc đời mình theo hai cách. Một là cách của ngủ, vô nhận biết, sống cuộc sống như thể bạn bị thôi miên: Bạn cứ làm mọi sự nhưng không chú ý lắm tới những điều đang xảy ra. Sự việc cứ xảy ra nhưng bạn không có đó. Sự việc cứ xảy ra nhưng không cái gì đọng lại trong bạn, không nốt nhạc nào ngân lên, không dấu vết gì để lại. Bạn chẳng học được gì từ những thứ đã và đang xảy ra. Mọi thứ đã xảy ra đều trở thành kí ức của bạn, nhưng chúng chưa bao giờ trở thành bản thể mới của bạn. Ký ức trở thành như rác bị chôn vùi, giấu kín, chúng chưa được tiêu hoá thành máu và xương mới của bạn. Bạn chưa bao giờ trưởng thành qua chúng.

Thế thì thời gian trôi, bạn chỉ già đi, không gì khác.

Nhưng nếu bạn đem phẩm chất của nhận biết cho kinh nghiệm, thì cùng kinh nghiệm đó trở thành sự chín chắn. 

Cho nên có hai cách sống: một, sống trong giấc ngủ say, thế thì mọi khoảnh khắc bạn đều trở nên già đi.

Hay bạn có thể sống cuộc sống của bạn với sự mãnh liệt, với sự quan sát sâu sắc và với nhận biết, thế thì bạn trở nên chín chắn, bạn không chỉ già đi. 

Già đi không có nghĩa là trí huệ. Nếu bạn đã là kẻ ngu khi bạn còn trẻ và bây giờ bạn trở nên già, thế thì bạn chỉ là kẻ ngu già, có vậy thôi. 


Việc chỉ già đi mà không trở nên chín chắn, là bạn đang phí hoài bản thân mình, bạn đang phí hoài cuộc sống.


Thầy Osho

Trích: “Đạo - Ba kho báu”

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2024

Điện Biên Phủ ...

ĐIỆN BIÊN PHỦ ... 

“ Qua miền Tâу Bắc núi vút ngàn trùng xa ... “


Cuối năm 1953, phát hiện quân chủ lực Việt Minh di chuyển lên Tây Bắc, tướng Henri Navarre quyết đinh tái chiếm một căn cứ cũ tại Điện Biên Phủ, cách Hà Nội 175 dặm về phía tây và sát với biên giới Lào để cản đường Việt Minh tiến vào vùng trồng lúa và cây thuốc phiện lớn.  

Ngày 20/11/1953, Tướng Cogny - tư lệnh chiến trường Bắc Bộ đã tổ chức cuộc hành binh Hải Ly cho quân nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ. Liên tục sau đó, lực lượng quân Pháp đồn trú ở Điện Biên được tăng cường thêm. Đến tháng 12/1953 đã lên tới 6 tiểu đoàn, khoảng 4.500 quân.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời nhằm án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào đồng thời làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công và sẽ bị nghiền nát tại đó.

Lúc đầu, Navarre chỉ coi Điện Biên là một cứ điểm bình thường nhằm ngăn chặn các hành động quân sự của đối phương. Nhưng khi phát hiện hai đại đoàn 308 và 312 đang di chuyển lên Tây Bắc, Navarre đã chú trọng tăng cường cho Điện Biên Phủ để nơi đây trở thành trận quyết chiến của hai bên. Trung tuần tháng 12 /1953, Navarre thông báo cho quân đồn trú ở Điện Biên là ông ta chấp nhận cuộc giao chiến với Việt Minh tại đây. Phương Tây coi đây là một sự chuyển hướng có tính chiến lược của Navarre, vì Điện Biên Phủ không nằm trong kế hoạch Thu Đông 1953 - 1954. 

Quyết định này dựa trên các yếu tố so sánh lực lượng mà phía Pháp thấy có nhiều lợi thế.

Trước hết, về hậu cần, trong khi quân Pháp có máy bay vận tải để tiếp tế thì Việt Minh chỉ có thể dùng sức người là chính vì đường sá tiếp cận Điện Biên rất xấu. Phép tính này cũng không lầm lẫn khi nguồn tiếp tế lương thực của Việt Minh là từ Khu 4, Việt Bắc và Trung Quốc. Cả 3 nguồn tiếp tế đó, khoảng cách quãng đường đến chiến trường từ 300 đến 400 km đều trong tình trạng đường rất xấu và dễ bị khống chế bằng không quân. Ngoài không lực từ Hà Nội, Hải Phòng có thể tiếp ứng thì quân Pháp ở Điện Biên cũng có máy bay ném bom ngay tại chỗ.

Hỏa lực pháo binh là yếu tố quan trọng trên chiến trường, Pháp có 24 khẩu pháo 105 mm và 4 khẩu đại pháo 155mm cùng gần 30 súng cối 120 mm. Trong khi Việt Minh khó có thể đưa được pháo lớn vào Điện Biên do địa hình hiểm trở. Nếu đưa được vào thì cũng sẽ bị hoả lực áp đảo của pháo binh Pháp tiêu diệt do phải đặt pháo ở sườn núi đối diện thung lũng mới đủ tầm bắn tới các cứ điểm vì thung lũng Mường Thanh dài 15 km và rộng hơn 5 km. Pháp lại có riêng 2 máy bay trinh sát chuyên lo việc phát hiện trận địa pháo nên trung tá Piroth – chỉ huy pháo binh ở Điện Biên tự tin hứa với Navarre rằng, sẽ tiêu diệt bất cứ khẩu pháo nào của Việt Minh sau 3 phút khai hỏa.

Bên cạnh ưu thế tuyệt đối về máy bay, Pháp cũng có ưu thế tuyệt đối về thiết giáp. Trong khi lực lượng Việt Minh chỉ là các đơn vị bộ binh thuần túy thì Pháp có ở đây 10 xe tăng. Địa hình bằng phẳng trong khu vực là một yếu tố địa lợi giúp quân Pháp phát huy ưu thế hỏa lực của máy bay, pháo binh và xe tăng trong khi Việt Minh thì không có chỗ ẩn núp.

Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm phòng ngự có hỏa lực mạnh. Toàn bộ khu vực gồm 49 cứ điểm được chia làm 3 phân khu. Các cứ điểm có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo những tính toán rất chi tiết. Khi đối phương tấn công vào một cứ điểm, hỏa lực mà họ gặp phải không chỉ của bản thân cứ điểm mà còn có hỏa lực của các cứ điểm xung quanh cùng với máy bay ném bom và pháo từ các trận địa trong trung tâm cứ điểm hỗ trợ.

Với những ưu thế đó, tướng lĩnh Pháp thậm chí còn lo lắng Việt Minh không tấn công thì công sức xây dựng cứ điểm Điện Biên sẽ vứt đi. 


Quyết định này của Pháp phù hợp hoàn toàn với mong đợi của các nhà lãnh đạo Việt Minh. Tại cuộc họp tháng 10 trong một căn nhà tre giản dị sâu trong núi, họ đã nhất trí rằng tranh chấp đồng bằng sông Hồng chỉ khiến quân Pháp được thi triển lực lượng và hỏa lực ngay sát căn cứ của họ. Mục tiêu của Việt Minh là phải dụ cho được đối phương và phân tán chúng, rồi tiến đánh khi chúng liều lĩnh tiến xa nhất. 

Khi biết kế hoạch Thu Đông 1953 - 1954 của Navarre là nhằm tập trung quân cơ động ở đồng bằng Bắc bộ để tìm diệt bộ đội chủ lực Việt Minh - Hồ Chủ tịch đã nói: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn."

Ngay từ tháng 4/1953 Việt Minh đã mở một mặt trận mới ở Lào để phân tán lực lượng của Pháp. Vào tháng 6, số thiết bị và quân nhu mà Trung Quốc viện trợ đã tăng từ 250 tấn trong cùng thời kì năm trước đến 2,000 tấn mỗi tháng, cùng với xe tải Molotova và xe ủi đất.

Lúc đầu bộ chỉ huy Pháp tại Hà Nội không biết Trung Quốc đã cung cấp cho Việt Minh các pháo tự hành M2A1 105mm của Mỹ mà họ đã tịch thu từ Quốc Dân Đảng cùng với súng cối 120mm và pháo cao xạ 37mm. Các vũ khí này giúp tăng cường hoả lực mạnh mẽ và trên hết là tầm bắn  – một quả pháo 105mm có thể bay đến mục tiêu từ ụ pháo cách đó khoảng 11,000 mét.

Lời kêu gọi quan trọng mà Tướng Giáp đưa ra là về hậu cần khi thuyết phục bộ chính trị rằng có thể kéo các khẩu pháo nặng hơn 2 tấn, vượt 500 dặm qua một số địa hình hiểm trở và duy trì tiếp tế hàng tháng trời cho lực lượng vây hãm gồm 4 sư đoàn. Việt Minh đã ban hành lệnh tổng động viên dân công trên toàn ‘vùng giải phóng’ trong ngày 6 - 12 .

Tướng Navarre và Cogny đã biết tin về bốn sư đoàn Việt Minh đang chuyển quân lên vùng núi phía bắc, nhưng vẫn không nắm được hướng đi và điểm đến do nhiều cuộc tấn công nghi binh của Việt Minh tại Cao nguyên Trung phần và châu thổ sông Hồng. Ngày 31/12, Tướng Navarre báo cáo về Paris rằng có khả năng căn cứ không thể bảo vệ được sau khi biết tin Việt Minh đang triển khai pháo tự hành ở Điện Biên Phủ.

Trong những tuần sau kỳ nghỉ năm mới, lực lượng đồn trú phát động một số cuộc xuất kích nhắm vào pháo binh Việt Minh, nhưng đều thất bại. Nỗ lực cắt đứt đường tiếp tế từ trên không cũng không thành công, một phần cũng vì hạn chế của phi đội B-26 Marauder.

Cách xa Điện Biên Phủ, Việt Minh tiến hành các cuộc tấn công biệt kích đêm nhằm làm tiêu hao không lực Pháp và đánh lạc hướng sự chú ý của Navarre. Hai mươi máy bay, phần lớn là C-47 quý giá, bị phá hủy trong các cuộc đột kích vào sân bay quanh Hà Nội và Hải Phòng. 

Trong tuần cuối của tháng giêng, quân đồn trú bị đặt trong tình trạng báo động cao. Tin tình báo cho biết Việt Minh sẽ tổng tấn công trong vài giờ tới. Nguồn tin này không sai -  đó là kế hoạch, nhưng Tướng Giáp đã quyết định lùi thời gian lại khi nhận định các điều kiện chưa chín muồi. Trận địa pháo trống trải dễ bị phản kích và dự trữ đạn pháo, đạn súng cối còn chưa được như mong muốn. 

Tiến trình ra khỏi Đông Dương của Pháp được đẩy nhanh hơn sau một phiên họp căng thẳng và khó khăn vào tháng giêng 1954 giữa các ngoại trưởng tại Berlin. Đại diện phía Liên Xô là Molotov thúc giục triệu tập một hội nghị có sự tham dự của Trung Quốc để giải quyết các vấn đề nổi cộm ở châu Á, nhất là Triều Tiên và Đông Dương. Hội nghị sẽ bắt đầu ở Geneva vào ngày 26/4 dưới sự chủ tọa của Anh và Nga.

Cả hai đội quân đang đối đầu ở Điện Biên Phủ giờ bị thúc ép trước tình hình khẩn trương mới, phải đạt được vị thế chiến trường mạnh nhất có thể trước bàn hội nghị. Paris đã bác bỏ đề nghị của nhà lãnh đạo Ấn Độ Jawaharlal Nehru cho một cuộc ngừng bắn ngay lập tức ở Đông Dương. Không chắc là Việt Minh sẽ chấp nhận một cuộc hưu chiến như thế, nhưng người Pháp đã bác bỏ một cơ hội – cơ hội cuối cùng có thể nghĩ ra – để rút lại tiền cá cược của mình đã đặt trên bàn Điện Biên Phủ.


Các cuộc không kích vào đường tiếp tế của Việt Minh không gây tác động nhiều trong khi phi cơ Pháp ngày càng phải đương đầu với hỏa lực ác liệt từ súng máy phòng không 12,7mm và pháo cao xạ 37mm của Xô viết.

Khi đạn pháo bất ngờ chụp xuống tiền đồn hoang vu ở phía tây Bắc Kỳ, người Pháp nhận ra một diễn tiến không ngờ khác từ phía Việt Minh. Theo kiến thức quy ước -  trận địa pháo nên được bố trí trên bờ nghiêng ngược lại, ngoài  tầm nhắm trực tiếp của đối phương. Vậy mà Việt Minh lại đặt các khẩu pháo trên mặt dốc phía trước - nòng pháo chĩa thẳng xuống các cứ điểm của De Castries. Dù ở vị trí đó, các khẩu pháo của Việt minh gần như không thể bị tổn thương bởi hỏa lực phản pháo, bởi vì chúng được giấu trong các đường hầm khoét sâu vào núi và chỉ được kéo ra khi lâm trận. Đồng bằng Điện Biên Phủ nằm trên độ cao 1,000 bộ so với mặt nước biển; vị trí cao nhất của Pháp cao hơn 600 bộ (khoảng 180 mét). Vậy mà chỉ cách đó khoảng 4,500 mét, Việt minh án ngữ một phòng tuyến trên đồi ở độ cao trung bình khoảng 1,100 mét. Pháo và súng cối của quân Pháp đặt trong hố bị phơi bày lộ liễu một cách kinh khủng.

Hàng tuần liền, bộ đội của Tướng Giáp chỉ đào, đào và đào. Họ đào chung quanh một mạng lưới hầm và hào để tiếp cận vành đai phòng tuyến Pháp. Các cứ điểm của Pháp tập trung trên 9 ngọn đồi, mỗi đồi được gắn một tên của phái đẹp. Isabelle và Béatrice được xem là mạnh nhất.

Vào ngày 11 /3, Việt Minh bắt đầu pháo kích vào các máy bay tại sân bay Mường Thanh và khống chế không phận bằng hỏa lực pháo cao xạ.

Chiều 13/3, Sư đoàn 312 tập kích cứ điểm phía đông - Béatrice ( Him Lam ), cách đường băng không đến 2 dặm.  Lúc 17:05, lực lượng phòng thủ chuẩn bị hỏa lực pháo và súng cối khi phát hiện Việt Minh bắt đầu chuyển quân thì Tướng Giáp đã ra tay trước. Một trận bão lửa của pháo và đạn súng cối hạng nặng ập xuống không chỉ Béatrice, mà còn vào các mục tiêu phân tán rộng khắp căn cứ, nhất là các vị trí pháo và bộ chỉ huy với độ chính xác cao. Tiểu đoàn Lê Dương Viễn Chinh với 450 người chống giữ Beatrice căng thẳng chờ đợi cuộc tấn công bằng bộ binh. Nhưng chỉ khi đêm xuống, bộ đội Việt Minh mới tràn lên từ những vị trí đã đào cách chu vi Béatrice khoảng 45 mét và giành được quyền kiểm soát Béatrice sau nửa đêm.

Lúc 18:00 giờ ngày 14, ngay trước khi mặt trời lặn, Sư đoàn 308 của Việt Minh bắt đầu tấn công cứ điểm Gabrielle( đồi Độc Lập ) xa hơn về phía bắc - được lực lượng Tirailleurs Algeria thứ 7 phòng thủ. Trận đánh ác liệt kéo đài đến tận đêm, dưới ánh sáng hỏa châu do máy bay Dakota thả xuống. Trong vài giờ đầu lực lượng phòng thủ bám vững trận địa, với sự yểm trợ của pháo gây nhiều khó khăn cho phía Việt Minh. Tuy nhiên, lúc 03:30 sáng, hoả lực pháo binh Việt Minh đã dội trúng đồn chỉ huy gây thương vong nặng nề. Quân Pháp hy vọng phản công vào rạng sáng nhưng binh lính Algeria đã chịu hết thấu. Lúc 07:00 ngày 15 khi các binh sĩ Việt Minh đầu tiên xuất hiện trên đỉnh Gabrielle thì lực lượng Tirailleurs, trong đó có một đại đội không hề giao tranh mà bỏ chạy tán loạn xuống đồi.

Sang ngày thứ ba của trận đánh, phân nửa kho đạn 27,000 quả pháo của quân đồn trú đã xài hết. Một phần ba pháo đội 155mm và hơn phân nửa đội súng cối 120mm thương vong. Người Pháp đã mất các vị trí quan sát tiền tiêu, thành ra các khẩu pháo còn lại buộc phải bắn gần như mù, lệ thuộc vào các mục tiêu trên các không ảnh chụp in ra giấy được thả dù xuống căn cứ. Chỉ huy pháo binh, Đại tá Piroth đã tự sát bằng một quả lựu đạn vì bất lực trước hỏa lực pháo của đối phương.

Hai ngày sau trôi qua không có sự cố gì. Các loa tuyên truyền của Việt Minh phát đi lời kêu gọi đầu hàng cho lực lượng phòng thủ bằng tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Ả Rập và Đức. Việc này không phải là không có tác dụng theo sau các loan báo về hội nghị Geneva sắp tới vì Cogny đã bổ sung vào lực lượng đồn trú Điện Biên Phủ một tiểu đoàn Việt và hai tiểu đoàn Thái được cho là không đáng tin cậy. Trong đêm 15/3, các vụ đào ngũ đã xảy ra tại tiểu đoàn Thái Lan án ngữ cứ điểm Anne-Marie( Bản Kéo ), cách Gabrielle một dặm rưỡi về phía tây - nam. Không lâu sau đó một trận pháo kích đẩy nhanh tiến độ tháo chạy trên diện rộng. Anne-Marie 1 và 2 rơi vào tay Việt Minh gần như không tốn một giọt máu và họ nhanh chóng triển khai ở đó dàn súng cối và súng không giật. Tinh thần chiến đấu của quân đồn trú vỡ vụn đến nỗi Việt Minh có thể tiến lên đánh chiếm toàn bộ căn cứ. Tuy nhiên, Tướng Giáp không muốn hấp tấp. Sự chuẩn bị kiên trì, có phương pháp đã có kết quả. Hơn nữa, các lực lượng tấn công cũng tổn thất nặng nề trong các thắng lợi ban đầu. Một phần tư bộ đội tấn công Béatrice được cho là đã hy sinh, và một tiểu đoàn tấn công Gabrielle tổn thất 240 người. Dưới làn mưa đạn pháo và đạn súng cối, lực lượng tấn công phải trả giá đắt vì thiếu thốn mũ sắt, và cách tấn công ‘biển người’ ban đầu. 

Vào ngày 28, pháo của Việt Minh đã phá hủy một máy bay Dakota trên đường băng. Đường băng không còn hữu dụng gì nữa. ‘Cầu không vận’ - điểm tựa để kế hoạch Điện Biên Phủ được xây dựng đã tan tác. Binh sĩ bắt đầu tháo dỡ những tấm thép từ đường băng để lợp nóc hầm và boongke.

Việt Minh tung ba phần tư lực lượng chính quy của mình vào Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, cho dù trận chiến đang tiếp diễn, lực lượng du kích của Họ vẫn duy trì sức ép ở nơi khác, để phân tán quân lực Pháp. Có đọ súng xảy ra trong vùng châu thổ sông Hồng và xa hơn về phía nam. Giữa tháng 2 và giữa tháng 5 nhiều đồn Pháp bị đánh chiếm. Pháp ra sức phòng thủ các vị trí trên khắp Việt Nam và sâu trong đất Lào.

Trong khi De Castries chiến đấu ở Điện Biên Phủ, thì tại Washington, London và Paris các cuộc thảo luận - đúng ra là tranh cãi nảy lửa xảy ra khi Đô đốc Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân ra sức vận động cho đề xuất mang tên ” Chiến dịch Kền kền".

Theo đó, Mỹ sẽ dùng 60 máy bay ném bom hạng nặng B-29 từ căn cứ không quân ở Philippines để ném bom rải thảm, mỗi đợt khoảng 450 tấn bom, xuống các vị trí của Việt Minh ở Điện Biên Phủ cùng với sự hộ tống của 150 máy bay chiến đấu từ Hạm đội 7. Ngoài loại bom thường (2 tấn/quả), Radford còn đề nghị sử dụng 3 quả bom nguyên tử chiến thuật để nghiền nát lực lượng Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Kế hoạch được sự ủng hộ của Tổng thống Eisenhower, Phó tổng thống Nixon, Dulles, tướng Nathan F.Twining (Tham mưu trưởng Không quân Mỹ). Rất may, nhiều người đã tán đồng ý kiến phản đối quyết liệt của Matthew Ridgway ( Tham mưu trưởng Lục quân ) nên kế hoạch đã bị đình chỉ. 

Đợt tiến công thứ 2 bắt đầu vào 16 giờ ngày 30/3. Các trận tấn công liên tiếp của 5 trung đoàn Việt Minh đánh chiếm các mục tiêu trên và chung quanh Eliane 1 do binh sĩ Algeria trấn giữ. Việt Minh khai hỏa pháo kích đúng giờ thông lệ 17:00, và phát động bộ binh một giờ sau. Mưa nặng hạt đã làm ngập úng các chiến hào và yểm trợ không lực gần như không thể thực hiện được. Trong khi đó, xa hơn về phía bắc - cứ điểm Dominique cũng bị bao vây. Sau gần bốn giờ giao tranh ác liệt, cứ điểm Eliane 1 sụp đổ. Cảnh tượng tương tự cũng xảy ra vào 22:00 ở Dominique 2.

Sáng ngày 31, một tiểu đoàn dù khác đã nhảy xuống Điện Biên Phủ và vào cuối ngày Pháp phản công chiếm lại Dominique 2, Eliane 1 để rồi nhìn chúng rơi trở lại trong cuộc tái tấn công của Việt Minh.

Vào khuya ngày 4/4, Pháp chính thức yêu cầu Mỹ viện trợ không lực cho Điện Biên Phủ. Tại Điện Biên Phủ, lực lượng tiếp viện vẫn được gửi đến. Một quyết định kịch tính được đưa ra khi Pháp phái đi nhóm quân tình nguyện chưa qua đào tạo về nhảy dù. Trong khi lực lượng bao vây tiếp tục đào hào tiến gần đến các mục tiêu tiếp theo thì sáng ngày 10/4 - đại tá Marcel Bigeard chỉ huy một cuộc phản kích vào Eliane 1. Lúc 11:30, sau trận đánh ác liệt họ đến được đỉnh đồi – rồi khựng lại với 60 binh sĩ thương vong. Hoàng hôn ngày 18/4, lực lượng đồn trú 100 người của Huguette 6 tháo chạy khỏi công sự.

Vào đêm 22 và ngày 23/4, bộ đội Việt Minh liên tục tiến đánh Huguette 1. Tướng De Castries ( được thăng hàm chuẩn tướng tại mặt trận vào ngày 16/4/1954 ) yêu cầu phản công, vì nếu mất Huguette 1 sẽ không còn không gian để thả dù tiếp tế. Lính dù dẫn đầu cuộc phản kích vào lúc 14:00 ngày 23/4, sau khi bốn chiếc Marauder và một tá chiến đấu cơ tiến hành không kích. Quân Việt Minh trên Huguette chịu tổn thất nghiêm trọng, nhưng do quân dù triển khai chậm 45 phút nên viện binh phía Việt minh cũng đã kịp bổ xung. Lính Pháp gặp hoả lực ác liệt và phải rút lui với thương vong nặng nề.

Tướng Navarre và Cogny bám vào các hy vọng - hoặc thời tiết mùa mưa tệ hại hơn sẽ khiến bộ đội của Tướng Giáp khó giữ vững nhịp độ tấn công vì lý do hậu cần, hoặc một cuộc ngừng bắn tại chỗ có thể được áp đặt bởi các cường quốc tại hội nghị ở Geneva. Họ thúc giục Paris rằng tiếp viện nhiều hơn sẽ cải thiện cơ may của quân đồn trú. Tất nhiên, điều này là vô lý vì không mấy người trong số phi hành đoàn còn muốn làm ra vẻ gắng sức, họ tống đại hàng tiếp tế ra khỏi máy bay từ 10,000 bộ - nên gần như phân nửa rơi vào tay đối phương. Nhiều trận dội bom được tiến hành mù, qua các đám mây.

Đêm 1/5, bộ đội Việt Minh tiến đánh Eliane 1 và chiếm được sau 90 phút cận chiến. Trong khi đó, quân phòng thủ Thái và Algeria trên Dominique 3, chống đỡ gan lì trước khi ngã quỵ. 

Cứ điểm Eliane 2 (đồi A1) giữ vai trò quan trọng vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực sở chỉ huy của De Castries và hai chiếc cầu trên sông Nậm Rốm. Trong trận đánh tại đây, quân Pháp thiệt hại 331 người chết hoặc mất tích và 168 người bị thương. Tướng De Castries chỉ còn hơn 2,000 binh sĩ chống lại 14,000 bộ đội của Tướng Giáp. Việt Minh tung ra vũ khí mới - Katyusha của Xô viết, dàn phóng tên lửa đa nòng, với tiếng rít gây chấn động tinh thần.

Việt Minh cũng tiến hành một cuộc tấn công vào Huguette 4 rạng sáng ngày 4/5. Trong 24 giờ tiếp theo quân đồn trú được bổ xung 383 lính tiếp viện bằng nhảy dù, trong đó có 155 người Việt. 

Sáng ngày 6/5, Tướng De Castries được tin tình báo về một trận tấn công lớn đêm đó. Vào lúc 21:30 một quả mìn của Việt Minh phát nổ bên dưới Eliane 2( A1 ), và rồi nó bị chiếm sau trận đánh chớp nhoáng dưới cơn mưa tầm tã. Đại úy Jean Pouget dẫn đầu một cuộc phản công bất thành. Một trận hỗn chiến ác liệt cũng nổ ra trên Eliane 4 và Eliane 10, khiến Langlais và Bigeard phải yêu cầu không kích ngay trên đầu rồi hủy bỏ cuộc nhảy dù tiếp viện vì vành đai phòng thủ bây giờ quá chật chội đến nỗi lính nhảy dù chắc chắn tiếp đất ngay trước mũi súng của Việt Minh. Thông điệp cuối cùng của sĩ quan chỉ huy Eliane 4, thất thủ sau 21:00 là đừng pháo kích vào vị trí đã thất thủ vì hào chứa đầy thương binh Pháp.

Lúc 17:00 ngày 7/5, Tướng De Castries điện đàm với bộ chỉ huy của Cogny, nói : ‘Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể . Đúng 17:30 tôi sẽ phái sứ giả.’ 

‘Ngài không được giơ cờ trắng. Ngài nên để trận đánh lụi tàn tự nhiên.’ - Tướng Cogny tìm cách ngăn cản một cuộc đầu hàng chính thức.

Rồi, từ boongke nhớp nhúa, ngột ngạt, De Castries ra lệnh phá hủy nhiều vũ khí có thể trước khi chính thức đầu hàng. Vị chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ không thể hiện phẩm chất có thể khiến ông là một anh hùng. Nhưng sẽ là hoàn toàn lầm lẫn khi cho rằng ông chịu trách nhiệm với việc thất thủ căn cứ, đã được an bày kể từ lúc lực lượng đồn trú không thể nhận được sự hậu thuẫn vững chãi.

Trên giấy tờ, trận đánh ở Điện Biên Phủ không hẳn là sự kiện quyết định của chiến tranh, bởi vì người Pháp còn sở hữu các lực lượng hùng mạnh và được Mỹ hậu thuẫn. Vậy mà chính quyền và nhân dân Pháp lại không thể chịu đựng thêm được nữa. Pierre Rocolle đã viết: ‘Điện Biên Phủ trở thành lời mời mọc cấp thiết để kết thúc cuộc bắn giết, bởi vì ý chí theo đuổi cuộc chiến đấu không còn tồn tại.’

Trước khi các phiên họp chính thức mở ra ở Geneva, ngày 3/5 - chính quyền Bảo Đại đe dọa tẩy chay hội nghị nếu người Pháp không đảm bảo việc chia cắt không có trên nghị trình. Các cuộc đối thoại song phương được nhộn nhịp tiến hành trước khi họp chính thức bắt đầu vào ngày 8/5.

Trong tuần lễ đầu, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lặng - hai ngoại trưởng duy nhất tỏ ra mất kiên nhẫn là Eden và Molotov. Vào ngày 10/5, Ông Phạm Văn Đồng đọc bài phát biểu tuyên bố Việt Minh chủ trương một nền độc lập đầy đủ cho ba nước Đông Dương. Ông hứa những người Việt nào từng chống lại Họ sẽ ‘không bị áp bức’. Rồi, trước sự kinh ngạc của phương Tây, ông bày tỏ ý muốn xem xét việc chia cắt. Gần như chắc chắn Việt Minh đã bị gây áp lực mới đưa ra một đề nghị như thế. Ngày 12/5, phái đoàn Bảo Đại tái xác nhận bác bỏ bất kì sự chia cắt nào. Nhưng các cuộc đối thoại song phương về cách thức và phương tiện bắt đầu giữa các đại biểu Pháp và Việt Minh, do Anh động viên.

Để hiểu rõ các sự kiện vài tuần sau đó, cần nhận thức rằng việc đầu hàng tại Điện Biên Phủ không ngăn được hai bên tiếp tục đánh nhau ở nơi khác trên khắp Việt Nam. Ngày 4/6 Navarre bị cách chức, nhường chỗ cho Paul Ely trở thành toàn quyền Đông Dương. Hai thảm họa quân sự mới xảy ra. Nhóm Cơ động 100, trong khi tiến hành một cuộc rút quân khỏi An Khê ở Cao nguyên Trung phần, rơi vào hàng loạt bẫy phục kích bắt đầu vào ngày 24/6. Khoảng nửa quân số Nhóm Cơ động 100 bị tiêu diệt và 4 phần 5 xe cơ giới bị phá hủy, một trong các trung đoàn thiện chiến nhất, ‘Triều Tiên’ 1 bị xoá sổ. Vào ngày 12/7 Nhóm Cơ động 42 chịu chung số phận. Nhiều nguồn tin cho biết Tướng Giáp đang chuẩn bị một trận công kích lớn vào đồng bằng sông Hồng. Tuyến đường sắt Trung Quốc nối với biên giới phía bắc của ‘vùng giải phóng’ hiện giờ cung cấp cho Việt Minh đến 4,000 tấn quân nhu và trang thiết bị mỗi tháng.

Trong khi đó tại Geneva, sau ngày 15/6 hội nghị phát triển một cách kịch tính - Joseph Laniel rời chức thủ tướng, và được Pierre Mendès-France thay thế. Vị thủ tướng mới lập tức tuyên bố rằng ông cũng sẽ từ chức nếu trong 30 ngày ông không đạt được lệnh ngừng bắn ở Đông Dương. Như vậy là ông đã đặt ra kỳ hạn chót cho hòa đàm Geneva. Các đại biểu của chính quyền Bảo Đại do thủ tướng mới được chọn một cách bất thường là Ngô Đình Diệm vẫn tỏ thái độ thù địch.

Vào ngày 10/7, mọi việc chia cắt được thỏa thuận giữa người Pháp và Việt Minh khép lại tại Vĩ tuyến 17. Sự chia cắt này ‘sẽ có tính lâm thời và theo bất cứ cách nào không nên được giải thích là hình thành một đường biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Mọi công dân Việt Nam được nhận một thời kỳ chiếu cố 300 ngày để quyết định sẽ sống dưới chế độ nào, với quyền tự do được bảo đảm đi ra bắc hay vô nam. Trong vòng hai năm sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử. Cả hai miền Việt Nam sẽ tham gia cùng với Lào và Cambodia như các nhà nước được thừa nhận là trung lập. Người Pháp sẽ khăn gói về nước. Có hai văn kiện chính hình thành Hiệp định Geneva. Thỏa thuận Đình Chiến được ký vào ngày 21/7/1954 bởi Pháp và Miền Bắc. Thông cáo Cuối cùng của Hội nghị Geneva được hậu thuẫn miệng bởi Pháp, Anh, Trung Quốc,  và Nga.


Hiệp định Geneva chỉ giải quyết những điều khoản hưu chiến, giữa thực dân Pháp ra đi và Việt minh nắm quyền ở Miền Bắc. Trong đó chứa cơ sở cho cả Washington lẫn Sài Gòn sau này nhấn mạnh rằng việc từ chối tiến hành bầu cử quốc gia trong khuôn khổ hai năm là không vi phạm điều gì mà hai bên đã thỏa thuận.

 ...


Theo Max Hastings

Trần Quang Nghĩa dịch


*Photo:  9 giờ sáng 14.3.1954, Việt Minh làm chủ toàn bộ cụm cứ điểm Him Lam (Béatrice), sau trận chiến đẫm máu kéo dài từ chiều hôm trước

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Quân tử dùng dằng ..

Quân tử dùng dằng ... đi chẳng dứt
Đi thì quá dở ... ở được không ?
...



Photo: Hoang Anh

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

Cây cầu tình yêu

CÂY CẦU TÌNH YÊU
Cây cầu Tình Yêu
Bắc qua sông Thù Hận
Mong manh và dễ gãy

Karl Lubomirski
Quang Chiến dịch

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Pháp thuật cao cường

PHÁP THUẬT CAO CƯỜNG

Ngày xưa, Phật cùng các đệ tử đi qua một khu rừng .. vừa đến mé sông thì thấy có vị đạo sĩ du già đang ngồi thiền ở cội cây.

Phật hỏi: 

- Ông ở đây bao lâu rồi, và đã tu chứng được gì? 

Đạo sĩ đáp: 

- Tôi tu được bốn mươi năm và đã có được phép khinh thân, đi qua con sông mà không cần đến ghe xuồng gì cả.

Nói xong, đạo sĩ niệm chú, nhún mình bay là là trên mặt nước và vượt qua sông nhẹ như chiếc lá ... trước những cặp mắt vô cùng thán phục của các đệ tử Phật. 

Phật mỉm cười, nói với vị đạo sĩ: 

- Tưởng gì lạ lùng, chứ để đi qua con sông mà phải tốn công tu luyện đến bốn mươi năm, thật phí công uổng sức quá!.

Chỉ với đồng tiền nhỏ bé này, người đưa đò sẽ đưa chúng ta qua sông một cách rất là dễ dàng. 


Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

Những cuốn sách xấu ..



 “ Những cuốn sách xấu có thể làm ta hư hỏng cũng như những người bạn xấu vậy ”

- G. Fieldin -

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Khi gió đồng ngát thơm ...

   Khi gió đồng ngát thơm, rợp trời chim én lượn

   Cây nẩy đầy chồi xanh mây trắng bay yên lành

...


Diệp Minh Tuyền

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024

Tháng tư loa kèn mỏng manh ..

 Tháng tư loa kèn mỏng manh 




   những góc phố con đường quen

   ...


   Giáng Son

   Photo : Net

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2024

Tự do ...

TỰ DO ...

Bạn có thể tự do. Bạn không cần phải đợi cả thế giới được tự do trước. Bạn có thể phúc lạc. Bạn không cần đợi cả thế giới được giải thoát khỏi đau khổ trước.

Nếu bạn chờ đợi, bạn sẽ chờ đợi trong vô vọng - Điều này sẽ không xảy ra.

Bạn có thể sống hoàn toàn tự do, ngay cả trong nhà tù cũng không có gì khác biệt, bởi vì nó là một thái độ bên trong. Nếu hạt giống bên trong của bạn vỡ ra, bạn được tự do. 

Bạn không thể bắt một vị Phật trở thành tù nhân.  Bạn có thể ném ông ấy vào nhà tù nhưng bạn không thể bắt ông ấy trở thành tù nhân. Ông ấy sẽ sống ở đó, ông ấy sẽ sống ở đó với sự tỉnh thức đầy đủ.  

Nếu bạn tỉnh thức đầy đủ, bạn luôn ở trong giải thoát, luôn ở trong tự do. Tỉnh thức là tự do, không tỉnh thức là trói buộc.

                  

Thầy Osho

  

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2024

Tự do ...

Tự do là ung dung trong .. ràng buộc

  ...


Thầy Viên Minh

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2024

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2024

Phất Thủ Liệu Pháp

“ Bách Bệnh Giai Sinh Vu Khí - Trăm thứ Bệnh đều do Khí sinh ra  

- Hoa Đà -


PHẤT THỦ LIỆU PHÁP

“Phất Thủ Liệu Pháp” hay còn gọi là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay đã được người Việt chúng ta biết đến khá nhiều trong khoảng mấy thập niên qua. Một phương pháp luyện tập rất thích hợp với người lớn tuổi vì giản dị, nhẹ nhàng với chiêu thức tóm tắt gần như còn có một động tác, có thể tập tại nhà, lúc nào tập cũng được nhưng có kết quả rất cao với khá nhiều chứng bệnh, qua sự chứng nghiệm của rất nhiều người.

 

I - Phương pháp luyện tập 

1. Về tư tưởng:

* Phải có hào khí, tức là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, đầy đủ, đều đặn, tư tưởng vững vàng kiên định, không nghe lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở

* Phải lạc quan, không lo sợ vì bệnh tật, phải bình tĩnh tin tưởng sẽ Phòng & Chiến Thắng được bệnh tật mà luyện tập.

 

2. Phương pháp:

Với khẩu quyết là 3 – 7 ( Trước 3 - Sau 7 và Trên 3 - Dưới 7 )

* Trước 3 - Sau 7 : Tay ra phía trước 3 phần thì ra phía sau bảy phần. có thể gọi là trước không sau có, tay ra phía trước không có lực còn ra phía sau có lực.

* Trên 3 - Dưới 7 :  Độ vững chắc của nửa trên cơ thể 3 phần thì phía dưới là 7 phần. hay còn gọi là “ Thiên – Khinh & Địa - Trọng ” phù hợp với qui luật của triết học phương đông. Phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt, nếu thiếu để tâm thực hành thì kết quả sẽ không được như mong đợi

* Lên Không - Xuống Có: Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau khép hờ hoặc xòe ra như cái quạt. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những yêu cầu cơ bản khi tập luyện. 

* Chú ý:

- Khi vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng,thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hô Hấp cũng Tự Nhiên (Nhẹ và Đều, không quan trọng phải thở đúng theo nhịp tay. Hãy để đầu óc nhẹ nhàng, thở thoải mái theo nhu cầu, không cần để tâm đến)

- Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra sau mà chỉ dùng sức bình thường. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập ( Theo Lương y Võ Hà )

- Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, chân đứng rộng bằng vai, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẩm câu: " lên có, xuống không " Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống). 

 - Hậu môn luôn thót lại suốt quá trình tập để bế Dương khí, không cho thoát ra. Nếu không thót hậu môn sẽ có thể bị trĩ hoặc sa trực tràng do khí bị dồn xuống Đan Điền, tăng sức ép vùng chậu hông. Hô Hấp Tự Nhiên sẽ giảm sức ép này. Khi vẫy tay, các khớp xương thỉnh thoảng cong lại rồi duỗi thẳng ra, nhất là khớp cổ

Tuỳ theo lịch sinh hoạt, nên tập ít nhất 1 lần trong ngày. Để chữa bệnh nên tập ngày 2 - 3 lần. Điều quan trọng ở đây là thường xuyên luyện tập mỗi ngày và đúng phương pháp. Không nên tập sau khi ăn no, thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức chịu đựng của cơ thể.

Sau khi tập, Không dùng nước Lạnh hoặc nước Ấm để lau rửa thân thể vì sẽ làm tiêu hao Nguyên Khí và quan trọng nhất là phải nhớ luôn xoa bóp tay chân cho khí huyết được lưu thông điều hòa  ( Theo Bs Phạm Xuân Phụng ) 

 

3. Các bước tập cụ thể: 

- Đứng thẳng người, hai bàn chân mở song song ( hoặc chữ Bát - tốt hơn nhưng người thể trạng yếu khó đứng lâu ) bằng khoảng cách hai vai

- Hai cánh tay buông lỏng duỗi thẳng tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai, các ngón tay duỗi thẳng, lòng bàn tay quay ra sau. Từ thắt lưng trở lên để lỏng.

- Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cổ để lỏng, đầu và miệng bình thường. 

- Các đầu ngón chân bám trên mặt đất như đi trên đường trơn, trọng tâm dồn xuống mũi bàn chân, gót chân để hờ trên mặt đất , bắp chân và đùi chân căng thẳng. 

- Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Thót hậu môn và nhẩm đếm. 

- Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả lại phía trước để tay buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Khoảng cách chỉ 3/7 phần so với phía sau. Hai tay được sử dụng như hai mái chèo bám sâu vào vai, khi chuyển động sẽ kéo theo cơ hoành chuyển động, nâng nên hạ xuống như lá pít tông khi bơm. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.

- Đầu cổ buông lỏng không nghĩ ngợi chỉ tâp trung nhẩm đếm xem tập được bao nhiêu lần. Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút).  

 

4. Thời gian luyện tập: 

Trong suốt quá trình luyện tập nhớ là phải thường xuyên, đều đặn từ 1 - 3 buổi mỗi ngày. Sáng thanh tâm tập mạnh, chiều trước khi ăn tập vừa , tối tập nhẹ ( lưu ý tối tập mạnh sẽ dễ mất ngủ, vì máu lưu thông mạnh, kích thích thần kinh hoạt động sẽ khó ngủ. Khi quen lại tạo ra sảng khoái và giấc ngủ sâu hơn ). Thời gian 1 buổi tập khoảng từ 30 phút trở lên, phải đạt tối thiểu 1800 lần/ 30 phút mới đảm bảo quá trình bơm máu.

 * Chú ý:

Nếu quá trình luyện tập không tập trung tư tưởng thì khí huyết sẽ loạn xạ và không chú ý đến trên nhẹ dưới nặng là sai và hỏng.

- Giai đoạn đầu là giai đoạn để cơ thể làm quen, không được gắng sức làm tổn thương các đầu ngón chân và khớp vai ( sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). không được nôn nóng vì dục tốc bất đạt, sẽ không thu được kết quả mong muốn. quyết tâm và từ từ tiến lên sẽ được kết quả tốt. vội vàng làm cơ thể không thích nghi kịp sẽ không tốt. Mới đầu tùy theo khả năng từng người, người quen vận động có thể bắt đầu từ 300 lần trong 1 buổi tập. người ít vận động có thể từ 200 hoặc 100 lần cho buổi tập đầu tiên. sau khi đã quen thì tăng dần lên mỗi lần tăng 100 lần/ buổi tập. Người yếu, ít vận động có thể tăng 50 lần/ buổi tập, dần tiến tới 1800 lần và hơn nữa.

- Khi vẫy tay tới 600 lần trở lên thường có trung tiện và hắt hơi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng, hai chân nhức mỏi thì đó là bình thường, đừng ngại. Sớm có trung tiện là tốt. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho phù hợp giữa sinh lý và vũ trụ ( Thiên - Khinh, Địa - Trọng) Trên Nhẹ, Dưới Nặng, đấy là qui luật sinh hợp với vũ trụ.

- Bệnh ở gan là do khí huyết lưu thông kém, nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, ảnh hưởng đến cả Mật và Tì Vị. Luyện Vẫy tay có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt. 

- Về bệnh ở mắt, luyện tập là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ và các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí cả đục thủy tinh thể. Trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến được các bộ phận của mắt sinh ra các bệnh.  

 

5. Những phản ứng:

Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được: 

1) Đau buốt  2) Tê dại 3) Lạnh 4) Nóng 5) Đầy hơi 6) Sưng 7) Ngứa

 8)Ứa nước dãi 9) Ra mồ hôi 10) Cảm giác như kiến bò 11) Giật gân, giật thịt 12) Đầu khớp xương có tiếng kêu lục cụ 13) Cảm giác máu chảy dồn dập 14) Lông tóc dựng đứng 15) Âm nang to lên 16) Lưng đau 17) Máy mắt, mi giật 18) Đầu nặng 19) Hơi thở nhiều, thở dốc 20) Nấc 21) Trung tiện 22) Gót chân nhức như mưng mủ 23) Cầu trắng dưới lưỡi 24) Đau mỏi toàn thân 25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân) 26) Sắc mặt biến dị 27) Huyết áp biến đổi 28) Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen 29) Tiểu tiện nhiều 30) Nôn, mửa, ho 31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra 32) Trên đỉnh đầu mọc mụt 33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân 34) Chảy máu cam. 

Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lúc lưu thông bình thường không thải nổi. Nhờ luyện tập, khí huyết lưu thông mới đẩy cặn bã ra ngoài và sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt. 

 

6. Luyện vẫy tay đạt được 4 tiêu chuẩn sau: 

- Nội trung tố : Tức là nâng cao can khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầụ 

- Tứ trường tố : Tức là tứ chi phải phối hợp với các  động tác theo đúng nguyên tắc khi tập. Tứ trường tố song song với nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dần đi xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.

- Ngũ tâm phát :  nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây họat động mạnh hơn mức bình thường:

* Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.

* Lão cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.

* Dũng tuyền: hai huyệt của hai gan bàn chân.

Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt . Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ. 

- Lục phủ minh : Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng   

 

7. Một số điều cần chú ý khi luyện tập :

1) Phải có quyết tâm đều đặn tập trung vào sự luyện tập, không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện tập, khó có hiệu quả. Số lần vẫy tay trong 1 buổi tập không giới hạn, nhưng các buổi tập phải đều, không nên lúc nhiều lúc ít. Có thể tập nhiều hơn nhưng không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần 1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị.  Người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân. Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng . Có bệnh nhân lên số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong mỗi buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp. 

2) Tốc độ vẫy tay nên chậm. Bình thường vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh , vòng rộng và dùng sức nhiều hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì không đạt tới mục đích. Vì luyện tập có tác dụng làm cho mạch máu lưu thông. 

3) Vẫy tay là môn thể dục mềm dẻo, phòng trống bệnh tật. Đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai, phải làm sao cho cho bả vai, lưng, ngực chuyển động làm cho cơ hoành lên xuống mới có tác dụng

- Bệnh phong thấp thì nên dùng sức ở mức nặng một chút. Bệnh huyết áp thì dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm. 

* Tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể: nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng và tốt nhất. 

Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (tức bệnh tật).

4) Nhẩm đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tĩnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân Âm được bồi dưỡng. 

5) Hoàn cảnh khi luyện tập : Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành, không có gió lùa và yên tĩnh vẫn tốt hơn. 

6) Trước và sau khi tập: Trước khi tập đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tĩnh nên cần chú ý đến điểm nàỵ 

7) Luyện tập đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước dãi ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập đúng phép. Sau khi tập đại đa số thấy có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.

* Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây: 

- Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư) 

- Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực) 

- Khi tay trả lại phía trước theo quán tính không dùng sức (nhẹ) 

- Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng, mạnh) 

- Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay 

- Tập ngày 2 - 3 buổi kiên quyết tự phòng & chữa bệnh cho mình 

8)Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không hết quả. 

9) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn hữu không tới 1%. 

10) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông.  

* Tóm lại cần lưu tâm vào những điều sau: 

- Khi tập luôn luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất. 

- Thót hoặc co hậu môn để giữ thế "Thượng - Hư, Hạ - Thực" 

- Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần ( 30 – 35 phút ) mới có hiệu quả. Nếu có Bệnh cần chữa thì nên tập 2 đến 3 lần / ngày

- Khi tập luôn tập trung nhẩm đếm để không bị phân tâm, nghĩ ngợi lung tung

- Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên. 

- Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ tăng cường thể lực và đẩy lùi bệnh tật. 

- Luyện tập vẫy tay không chỉ chữa khỏi bệnh mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu  

 

* Chống chỉ định: Những người đang bị ngoại thương không được phép tập, vì máu lưu thông mạnh làm vết thương há miêng, khó lành. 

( Theo Lương y Trần Văn Bình ) 

 

II - Nguồn gốc của Phất Thủ Liệu Pháp

Một số tài liệu đặt tên cho phương pháp vẫy tay này là “ Đạt Ma Dịch Cân Kinh ” nhưng trên thực tế chưa tìm thấy bằng chứng nào để xác thực cả. “ Phất Thủ Liệu Pháp ” có nguồn gốc xuất xứ rất mơ hồ, không rõ từ đâu, do ai sáng tác và cũng không liên quan đến tài liệu “ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh” có gốc gác từ Trung Quốc. Rất có thể đây là một sáng tạo của người Việt dựa trên nền tảng y lý và võ đạo Đông Phương. Có thể gọi “ Phất Thủ Liệu Pháp ” là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay. Dù không liên quan đến “ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh ” nhưng tác dụng chữa bệnh đã được thực chứng và cơ sở lý luận Đông Y của nó là không thể phủ nhận. Do vậy, việc luyện tập cũng như truyền bá phương pháp này là thực sự cần thiết và hữu ích cho cộng đồng.

Theo tài liệu của Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì: 

" Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung thư gan, lao, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại học Y khoa Thượng Hải, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu Lâm ở Hương Cảng, Đài Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975." 

 

1. Cơ sở lý luận Đông Y

Theo quan điểm đông y thì tình trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với KHÍ - HUYẾT của cơ thể. Khí và Huyết không thể tách ra từng mặt để nghiên cứu như huyết nhiều hay ít, loãng hay đặc, sắc tố thế nào… mà xem xét cả quá trình tuần hoàn của huyết. không xem xét ở một bầu máu không sức sống, mà khi nêu vấn đề Khí Huyết là xem xét phân tích trạng thái vận động và cả quá trình sinh lý cùng với các mối quan hệ khác.

Về khí cũng vậy, thông thường ta hiểu là khi thở không khí vào phổi, ăn thức ăn vào bụng, ruột hấp thụ chất dinh dưỡng ấy và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân thể được ôxy hóa sinh ra nhiệt năng, đồng thời thu hồi các chất cặn bã từ các tế bào cơ thể bài tiết ra ngoài. Nhưng trong đông y, khí bao hàm rất rộng không chỉ là không khí mà còn là hào khí, thiên vị khí (Prana)…

Tuần hoàn tốt phát huy tác dụng của máu, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sức khỏe đương nhiên sẽ được cải thiện. Cho nên trong lý thuyết Khí - Huyết không thể đơn độc chỉ có Huyết mà không có Khí hay ngược lại.

Đông y cho rằng mâu thuẫn chủ yếu trong cơ thể là ÂM - DƯƠNG . Và trong KHÍ - HUYẾT  thì Âm là Huyết - Dương là Khí.

Luyện PTLP làm cho khí huyết hoạt động điều hòa có tác dụng phòng và chữa bệnh. Lấy thí dụ trong 1 đơn vị quân đội cùng sinh hoạt như nhau, sau 1 bữa ăn lại có người bị đau bụng đi kiết lỵ, đi tả, nhưng có những người chẳng bị làm sao. Đấy là những người có thể trạng mạnh khỏe, Khí Huyết lưu thông tốt nên giúp cơ thể thải độc tốt, vì thế họ không mắc bệnh. 

Tập PTLP có thể chữa được cả bệnh nan y như Ung thư. Người xưa quan niệm u nhọt chia làm 2 loại: Âm thư và Dương thư , có câu : “ Dương thư dễ lành, Âm thư khó trị”. Dương thư là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi vỡ và có ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư là cái nhọt mọc bên trong cơ thể không có đầu to dần lan rộng, có khi rắn như đá gọi thạch thư. Nguyên nhân đều do sự kết tụ của khí huyết làm trở ngại và tắc kinh lạc, do vậy các phế vật trong cơ thể cần thải mà không thải ra được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch, gan, các chất khô... không đủ nhiệt năng nên công năng của máu giảm sút không thể thải được những chất không cần thiết trong cơ thể ra ngoài 

Luyện vẫy tay đúng phép, miệng , dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, các sự chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ nên sẽ phòng chống được tật bệnh. Vẫy tay thực chất là bơm máu lưu thông trong cơ thể. Toàn bộ cơ thể được sử dụng như một chiếc bơm và lại bơm khí cho chính cơ thể đó. Cái thông minh của người xưa là sử dụng cơ hoành như 1 lá pít tông. Khi vẫy tay liên tục cơ hoành lên xuống dễ dàng tăng thêm khí trong dạ dày , thận và ruột gây tác dụng hưng phấn, áp lực khí trong máu tăng làm máu lưu thông mạnh hơn giúp cho viêc tống cựu nghinh tân được tốt, khí huyết thông thoáng cân bằng.

Nguyên nhân ung thư thì hiện nay trên thế giới vẫn còn bàn cãi, nhưng lý luận về Khí - Huyết của đông y đã có lập luận rõ ràng. Đông y xem cơ thể con người là một thể vận động và thống nhất, trong vận động này lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau tức là tương hỗ, tương sinh , ức chế lẫn nhau là tương khắc. Bệnh tật hầu hết là do sự trì trệ khí huyết và nó lại làm hao tổn thêm khí huyết. Khí - Huyết có tác động đến tất cả lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh ra bệnh ung thư cũng là do Khí - Huyết lưu thông không chu đáo mà ra.

Việc luyện tập làm cho khí huyết lưu thông là để Phòng & Tự chữa bệnh - đây là cơ sở để xây dựng lòng tin vững chắc cho người bệnh đối với việc tự chữa bệnh, mà từ đó tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập. PTLP chính là phương pháp thay đổi tăng cường lưu thông khí huyết mà làm thay đổi trạng thái sức khỏe cơ thể. Vì thay đổi tăng cường khí huyết nên PTLP có thể Phòng & Chữa được cả bệnh ung thư cũng như rất nhiều bệnh khác nhau:

Trĩ nội, ngoại, lòi dom.

Các bệnh về đường tiêu hóa ruột, dạ dày, gan…

Suy nhược thần kinh.

Các bệnh về tim

Bán thân bất toại, trúng gió lệch mắt, méo mồm

Hen xuyễn

Các bệnh về Mắt

….

Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật là do KHÍ - HUYẾT ( ÂM - DƯƠNG ) MẤT CÂN BẰNG mà sinh ra, Phất Thủ Liệu Pháp có thể giải quyết được vấn đề này nên đa số các bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa khỏi, đăc biệt ngay cả bệnh ung thư cũng có thể khỏi. 

 

2. Tác dụng  

Tập Phất Thủ Liệu Pháp tác động đến các huyệt đạo:

-         Bách hội

-         Đại chùy

-         Lao cung

-         Trường cường

-         Hội âm

-         Dũng Tuyền

-         Ấn bạch        

Cũng như nhâm đốc mạch và vận chuyển hoành cách mô xoa bóp các cơ quan trong tạng, phủ.

Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500 -700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Đây là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng Phất Thủ Liệu Pháp.

PTLP đặc sắc ở chỗ phất tay về sau mạnh và cao. Thủ thuật này làm tuần hoàn máu ở não gia tăng. Nó hiệu quả hơn so với tư thế Yoga trồng chuối ngược vì thế này dựa vào hấp lực của trái đất - thụ động đưa máu đỏ đến não nhưng lại gây trở ngại cho việc đưa máu đen từ não về tim. PTLP là biện pháp đưa máu đỏ lên não tích cực. Khi phất tay ra sau mạnh và cao, các cơ vùng cổ gáy, bờ vai ép mạnh vào các mạch máu nơi này, tống máu đỏ lên, đưa máu đen xuống cũng nhanh và mạnh theo. Tuần hoàn máu đưa chất dinh dưỡng lên não và đưa chất thải sinh học xuống dưới nhanh hơn, mạnh hơn. Do đó sinh lý não bộ phải tốt hơn lên. Não bộ chỉ huy mọi hoạt động của tất cả cơ quan. Lãnh đạo khỏe minh mẫn thì cấp dưới làm việc tốt hơn là đương nhiên.

Đối với y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ đồng một thể. Con người là tiểu vũ trụ. Trời đất thuộc đại vũ trụ. Mối quan hệ giữa con người và trời đất thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thìên căn, hấp tiếp địa khí". Hàng ngàn năm sau, hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng đã nghiên cứu, thí nghiệm và kết luận "vũ trụ lực nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót"*. Những động tác của PTLP tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này cho việc chữa bệnh và tăng cường nội khí. Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay đã kích hoạt huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu và Đại Chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh Dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh Dương và Mạch Đốc.

Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường Cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng Tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.

Theo học thuyết Kinh Lạc, Dương phải thường giáng và Âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (Âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực Dương sinh Âm và Cực Âm sinh Dương. Việc nhập xuất, thăng giáng ở các huyệt vị và những đường kinh này những người luyện khí công có khí cảm tốt đều có thể thể nghiệm được. Đây có lẽ chính là con đường mà người xưa đã khám phá và từ đó xây dựng nên học thuyết Kinh Lạc. Trường Cường nằm trên mạch Đốc, là nơi phát xuất chơn Hỏa, tương ứng với luồng Hỏa xà Kundalini trong hệ thống khí công Ấn độ. Hội Âm nằm trên mạch Nhâm, là điểm giao hội của các đường kinh âm và hai mạch Nhâm, Xung, là điểm thu âm khí quan trọng nhất trong khí công. Do đó mặc dù không vận khí nhưng PTLP đã tác động rất tích cực vào hai mạch Nhâm, Đốc. Y học truyền thống cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các đường kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các đường kinh Âm. Tất cả bệnh biến đều có biểu hiện trên hai đường kinh này. Nếu Nhâm, Đốc thông, trăm mạch đều thông. Vì vậy việc khai thông Nhâm, Đốc có ý nghĩa quan trọng cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh. 

PTLP có tác dụng cân bằng Âm - Dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí Dương thường thừa mà khí Âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). PTLP có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường Kinh Âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc Thượng Hư - Hạ Thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) - biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống Hạ Tiêu. Điều này khí công gọi là khí trầm Đan Điền, đạo gia gọi là Qui Căn. Đối với y học cổ truyền, đó là thuận khí, giáng hư Hỏa hoặc dẫn Hỏa quy nguyên. PTLP cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.

Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thìện vốn có của hệ thần kinh trung ương.  

( Theo tài liệu “ Phất Thủ Liệu Pháp ” của Lương y Võ Hà ) 

 

3. Phản ứng phụ

PTLP có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.

Do không rơi vào Nhập Tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. PTLP tác động kích thích đồng thời các huyệt Bách Hội, Hội Âm và Trường Cường. Do đó, Bách Hội và Hội Âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ Trường Cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa Âm và Dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.

Do tuân thủ nguyên tắc Thượng - Hư, Hạ - Thực và tâm ý quán chiếu Đan Điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma. Trong cơ thể một người bình thường, hai mạch Nhâm, Đốc thường tách rời nhau. Ở người luyện khí công, vòm họng trên và hậu môn có khả năng trở thành những chiếc cầu nối hai mạch này lại nên được gọi là Thượng Thước Kiều và Hạ Thước Kiều. Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn vừa là một yêu cầu luyện công để tăng nội lực, vừa là một biện pháp an toàn do những động tác này nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra thế bình thông nhau giữa hai bể khí Âm và Dương. Sự tương thông này giúp nội khí luân lưu tuần hoàn thành vòng Tiểu Châu Thiên trong thân người, điều hòa giữa Âm và Dương và thông qua hai đại mạch này tăng cường và điều hòa sinh lực giữa ngủ tạng, lục phủ. 

( Theo tài liệu “ Phất Thủ Liệu Pháp ” của Lương y Võ Hà ) 

 

Nguồn Tổng Hợp

* Ghi chú: Tài liệu PTLP này được tổng hợp từ nhiều nguồn trong đó chính yếu là từ tài liệu có tên “ Dịch Cân Kinh “ được cụ lương y Trần Văn Bình phổ biến và đưa cho Phạm Viết Hồng Lam, 43 tuổi (Giảng viên trường Cao đẳng Sư Phạm Nhạc Họa) để tự chữa khỏi bệnh. Hồng Lam bị ung thư vòm họng giai đoạn II, lâm vào một tình thế bế tắc. Anh đã được cụ Bình giới thiệu tập tài liệu luyện tập này, và anh đã luyện tập để tự chữa bệnh. Điều thần diệu đã đến, sau 3 tháng luyện tập, bệnh của anh đã khỏi hẳn và sức khỏe ngày một tăng không ngờ ( Tài liệu được trao ngày 7/2/1989 anh tập đến tháng 5/1989 thì hết bệnh ). Sau khi hết bệnh, Hồng Lam kể lại quá trình luyện tập chữa bệnh của mình cho bạn bè thân thuộc nghe, đồng thời anh cũng giới thiệu tập tài liệu này trên báo Hà Nội Mới để chứng minh cho điều mình đã kể cũng như để cho đồng bào cả nước cùng biết.

Bs Hoàng Khánh Toàn, chủ nhiệm khoa Y học cổ truyền, Bệnh viện 108 cho rằng phương pháp này có hiệu quả nhất định nhưng tài liệu thì chưa đáng tin cậy.

Phương pháp này cũng đã được Lưu Dũng chỉnh lý và sử dụng chữa trị hiệu quả một số bệnh lý như : cao huyết áp, hen suyễn, suy nhược thần kinh, đau nhức xương khớp... ở Trùng Khánh, Trung Quốc.

( Theo vnexpress )