“Vì
Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” *
-
Fidel Castro -
BAO
GIỜ VIỆT NAM MỚI ĐƯỢC NHƯ THẾ
…
Ở
Cuba, có những điều mà ít nhất 2/3 dân số Việt Nam đang nằm mơ cũng không được
như vậy.
Tất
cả trẻ em Cuba đều được giáo dục miễn phí ngay từ mẫu giáo lớn (5 tuổi) cho đến
khi tốt nghiệp đại học hoặc học lên đến tiến sĩ. Trong suốt quá trình học này,
học sinh không phải chi một xu cho tiền may đồng phục, tiền mua sắm sách vở,
giấy bút và còn được nuôi ăn một bữa hoặc cả ngày (tùy theo từng trường).
Trẻ
em Cuba từ khi đi học mẫu giáo đã được học 3 thứ. Đó là: âm nhạc, múa và bơi
lội. Còn chữ nghĩa thì cũng có học nhưng chỉ là nhận biết mặt chữ mà thôi.
Không có một trẻ em Cuba nào bị thất học, dù đó là ở nơi “thâm sơn cùng cốc”.
Tất
cả người dân Cuba đều được khám, chữa bệnh miễn phí và được dùng những loại
thuốc tốt nhất có thể. Vào những bệnh viện ở Cuba, không làm gì có cảnh bệnh
nhân “lóp ngóp” chui từ gầm giường ra chào hoặc ba bốn bệnh nhân chung nhau một
giường (như ở Việt Nam). Việc một ông ủy viên Trung ương nằm chung phòng điều
trị với một ông phó thường dân là chuyện bình thường.
Tất
cả người dân, trẻ em Cuba đều được uống sữa tươi miễn phí. Nếu là trẻ em dưới
10 tuổi thì đều “như vắt chanh”, mỗi ngày được uống nửa lít sữa và nhà nào
không có điều kiện ra cửa hàng lấy thì có người mang sữa đến tận nhà.
Rồi
nữa, giáo dục của Cuba được xếp vào hàng tiên tiến nhất thế giới, ngang với Đan
Mạch. Y tế Cuba thì cũng đứng vào hàng đầu và họ đã chế ra được vắc-xin phòng
chống bệnh ung thư và nhiều loại thuốc đặc biệt khác. WHO đã công nhận Cuba là
quốc gia đầu tiên trên thế giới ngăn chặn thành công nguy cơ lây truyền bệnh
giang mai và virus HIV từ mẹ sang con.
Thể
thao Cuba thì cũng đứng vào hàng thứ 14, 15 gì đó trên thế giới (trong khi Việt
Nam ta chưa được xếp vào thứ bậc nào trên thế giới, hoặc nếu có thì cũng hàng…
đội sổ).
Còn
về trật tự xã hội thì quả thực đó là một thiên đường cho sự ngăn nắp, nề nếp,
văn minh và sự tôn trọng các quy tắc trật tự đô thị, bảo vệ môi
trường. Đúng là người dân Cuba còn thiếu thốn bởi các lệnh cấm vận của Mỹ.
Nhưng trong phạm vi có thể, Chính phủ đã lo cho trẻ em và người già hết mức.
Đấy chính là bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa tại Cuba.
Đi
trên đường phố thủ đô La Habana hoặc đến bất cứ cửa hàng nào, không làm gì có
cảnh người dân chen lấn, xô đẩy mua hàng hóa hoặc chen lấn lên xe buýt. Một
cháu bé đang đi tung tăng trên vỉa hè, nếu vui chân chạy xuống đường thì lập
tức tất cả các phương tiện giao thông đang đi trên đường dừng lại, người lái xe
sẽ xuống xe dắt cháu trên vỉa hè rồi mới đi tiếp.
Đúng
là xã hội của họ còn nhiều thiếu thốn, cách quản lý, xây dựng phát triển kinh
tế của họ cũng còn nhiều điều phải bàn, phải cải tổ nhưng rõ ràng họ đã chăm lo
tốt hơn ta rất nhiều cho đời sống người dân, đặc biệt là trẻ em và người già.
Mà nhân đây cũng phải nói thêm rằng, bình quân thu nhập theo đầu người của Cuba
còn gấp 3 lần người Việt Nam (khoảng3.000USD/người/năm). Chỉ có điều là Cuba đã
dành 54% tổng thu nhập quốc gia cho giáo dục và y tế.
Bao
giờ Việt Nam ta mới được như thế!?
Như
Thổ
CUBA
NGHÈO VÌ FIDEL CASTRO HAY VÌ MỸ
Để
đánh giá một cách khách quan di sản của Castro, sự phát triển của Cuba và những
cải cách ngày nay, chúng ta không thể vờ như sự phong tỏa của Mỹ là không có
tác động đến cơ cấu của nền kinh tế Cuba.
Cùng
với những mô tả về ông như một “nhà độc tài tàn bạo”, các phản ánh tiêu cực về
Fidel Castro từ ngày ông qua đời 25/11 chủ yếu tập trung vào việc
“quản lý yếu kém” của ông đối với nền kinh tế Cuba và hậu quả “cực nghèo” mà
người dân Cuba phải gánh chịu.
Đây
là một bức tranh biếm họa mơ hồ - không chỉ vì nó bỏ qua các tác động có sức
tàn phá kinh tế của lệnh cấm vận của Hoa Kỳ trong hơn 55 năm, mà còn vì nó dựa
trên những giả định kinh tế học tân cổ điển. Nghĩa là bằng cách nhấn mạnh chính
sách kinh tế (của Castro) thay vì những hạn chế về kinh tế (mà lệnh cấm vận của
Mỹ gây ra), các nhà phê bình có thể đẩy trách nhiệm về hậu quả nghèo đói của
Cuba cho Castro mà không đề cập đến việc chính quyền Mỹ đã liên tiếp áp đặt
lệnh cấm vận đến nghẹt thở.
Cách
tiếp cận trên cũng bỏ qua những câu hỏi quan trọng dành cho Cuba sau cuộc cách
mạng: Những nước có mức thu nhập trung bình và thu nhập thấp có thể nhận nguồn
vốn ở đâu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cung cấp phúc lợi? Làm thế nào có thể
thu được vốn nước ngoài mà không bị các điều kiện cản trở phát triển, và làm
thế nào một đất nước chậm phát triển như Cuba có thể sử dụng thương mại quốc tế
để tạo ra thặng dư trong một nền kinh tế toàn cầu mà nhiều người cho rằng đang
có xu hướng “bất bình đẳng trong thương mại” ?
Việc
tìm kiếm các giải pháp cho thách thức về phát triển đã dẫn chính quyền cách
mạng Cuba đi theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. Họ đã thực hiện một nền kinh tế kế
hoạch, trong đó sở hữu nhà nước chiếm ưu thế vì họ xem hệ thống này là giải
pháp tốt nhất cho các thách thức lịch sử trên.
Nhưng
hoạt động trong khuôn khổ xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến những hạn chế và rắc rối
khác, đặc biệt là trong bối cảnh của một thế giới lưỡng cực. Cuốn sách của tôi:
“Che Guevara: Khía cạnh kinh tế của cách mạng” nghiên cứu về các mâu thuẫn và
thách thức đối với chính quyền cách mạng non trẻ nhìn từ góc độ vai trò của
Guevara khi là chủ tịch Ngân hàng Quốc gia và Bộ trưởng Công nghiệp.
Các
tài liệu về Cuba bị chi phối bởi “Cubanology”, một trường phái đối lập về chính
trị và tư tưởng với Cuba xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện và liên quan tới chính
phủ Mỹ của nó cũng được chứng tỏ bằng tư liệu. Nó lập luận rằng cuộc cách mạng
đã thay đổi mọi thứ ở Cuba – và Fidel (và sau đó là Raul) Castro đã một mình
chi phối các chính sách trong nước và chính sách đối ngoại kể từ sau cách mạng,
qua đó ngăn chặn dân chủ và trấn áp xã hội dân sự. Sự quản lý kinh tế yếu kém
của họ đã làm tăng trưởng đạt được không đáng kể từ năm 1959. Họ chỉ đơn giản
thay thế sự phụ thuộc vào Mỹ bằng sự phụ thuộc vào Liên Xô cho đến khi Liên Xô
sụp đổ vào năm 1990.
Những
lý luận này cũng đã định hình các nội dung chính trị và truyền thông về Cuba.
Nhưng vấn đề của cách phân tích này là nó cản trở khả năng của chúng ta trong
việc nhìn thấy rõ những gì diễn ra ở Cuba, hay cản trở khả năng phân tích sức
mạnh của cuộc cách mạng và sức sống của xã hội Cuba.
1. Castro
đã thừa hưởng những gì?
Những
lập luận về sự thành công hay thất bại của nền kinh tế sau năm 1959 thường dừng
lại ở thực trạng của nền kinh tế Cuba trong những năm 1950. Chính phủ sau năm
1959 được thừa hưởng một nền kinh tế có sản phẩm đường làm chủ đạo với những
vết sẹo sâu về chủng tộc và kinh tế-xã hội do chế độ nô lệ để lại. Jaime
Suchlicki, người theo trường phái Cubanology, lập luận rằng Cuba của Batista đã
từng “ở giai đoạn cất cánh như Walter Rostow mô tả”, trong khi Fred Judson chỉ
ra những yếu kém về cơ cấu trong nền kinh tế Cuba: “khủng hoảng kéo dài đã tạo
nét đặc trưng cho nền kinh tế: thịnh vượng bề ngoài và nhất thời”. Vì vậy,
trong khi một bên khẳng định cuộc cách mạng đã làm gián đoạn sự tăng trưởng tư
bản mạnh mẽ, thì bên còn lại tin rằng cuộc cách mạng là điều kiện tiên quyết để
giải quyết những mâu thuẫn cản trở phát triển bằng cách chấm dứt sự phụ thuộc
của Cuba vào chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ.
Sau
cuộc cách mạng, Castro đã nỗ lực mang đến phúc lợi xã hội và cải cách ruộng đất
cho nhân dân Cuba và tịch thu tài sản phi nghĩa của tầng lớp thượng lưu Cuba.
Nhưng khi bên thua cuộc Fulgencio Batista và đồng bọn trốn khỏi Cuba, họ đã lấy
cắp hàng triệu peso từ Ngân hàng Quốc gia và Kho bạc. Đất nước bị bòn rút, làm
hạn chế nghiêm trọng khả năng chi tiêu công và đầu tư tư nhân. Người Cuba giàu
có thì rời đảo, mang theo các khoản tiền và thuế. Chính phủ mới sẽ làm thế nào
để thực hiện những cải cách kinh tế-xã hội đầy tham vọng khi không có các nguồn
lực tài chính?
Chúng
ta phải nhìn vào thực tế tại mỗi thời điểm. Ví dụ khi lệnh cấm vận đầu tiên của
Mỹ được thực hiện, thì lúc đó 95% tư liệu sản xuất của Cuba và toàn bộ các linh
kiện được nhập khẩu từ Mỹ – và Mỹ là nước nhận xuất khẩu chính yếu của Cuba.
Khi khối Xô-viết tan rã, Cuba bị mất 85% lượng thương mại và đầu tư, dẫn đến
GDP giảm mạnh 35%. Các sự kiện này đã gây nên các khó khăn kinh tế nghiêm trọng
đối với khả năng xoay sở của Cuba.
2. Đằng
sau sự nghèo đói
Tiếp
đến, ta cũng nên tự hỏi: Chúng ta đo lường mức nghèo của Cuba như thế nào? Bằng
GDP bình quân đầu người? Thu nhập hằng ngày? Có nên sử dụng những thước đo kinh
tế tư bản chủ nghĩa, các thống kê tăng trưởng và năng suất để đo sự “thành
công” hoặc “thất bại”, trong khi ít chú ý đến các ưu tiên về xã hội và chính
trị?
Dù
xếp Cuba vào nhóm có GDP bình quân đầu người thấp nhưng Chỉ số phát triển con
người (HDI) đã liệt kê Cuba trong danh sách có “chỉ số phát triển con người
cao”; Cuba không chỉ xuất sắc về y tế và giáo dục, mà còn về sự tham gia của
phụ nữ và hòa nhập chính trị. Cuba đã loại bỏ được nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Không có trẻ em ngủ trên đường phố. Thực ra là không có cả người vô gia cư.
Ngay cả trong những năm 1990 nạn đói hoành hành do khủng hoảng kinh tế, người
dân Cuba không chết đói. Cuba vẫn duy trì nền kinh tế kế hoạch và điều này giúp
người Cuba phân phối đồng đều các nguồn lực khan hiếm.
Vâng,
tiền lương cực kỳ thấp (cả Fidel và Raul cũng than thở) – nhưng mức lương của
người dân Cuba không quyết định tiêu chuẩn sống của họ. Khoảng 85% người dân
Cuba có nhà riêng và tiền thuê nhà không vượt quá 4% thu nhập. Nhà nước cung
cấp một giỏ thức ăn rất cơ bản trong khi các hóa đơn điện nước, chi phí
đi lại và thuốc men được giữ ở mức thấp. Các nhà hát, rạp chiếu phim, những vở
ba lê,v.v… có giá đều rất rẻ cho tất cả mọi người. Giáo dục chất lượng cao miễn
phí và chăm sóc y tế miễn phí. Những điều này là một phần của cải vật chất của
Cuba không nên bị bỏ qua khi ta đánh giá, chứ không phải tiêu dùng cá nhân các
hàng tiêu dùng là thước đo duy nhất của sự thành công về kinh tế.
3. Chương
trình Operation Miracle
Những
thách thức cụ thể và thực tế mà quá trình phát triển của Cuba phải đối mặt đã
tạo ra những mâu thuẫn hiếm thấy. Trong một nền kinh tế kế hoạch, với ngân sách
cực kỳ chặt chẽ, họ đã phải lựa chọn ưu tiên: cơ sở hạ tầng thì đổ nát nhưng họ
lại có các chỉ số phát triển con người hàng đầu thế giới. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ
sinh thể hiện rất nhiều về tiêu chuẩn sống, và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
kinh tế, xã hội và y tế. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Cuba là 4,5 trên 1.000
ca sinh sống, đã đưa Cuba vào cùng danh sách với những nước hàng đầu thế giới,
hơn cả Mỹ trong bảng xếp hạng riêng của CIA.
Không
chỉ người Cuba trong nước mới được hưởng những sự đầu tư này. Hàng chục nghìn
bác sĩ, các nhà giáo dục và các cán bộ hỗ trợ phát triển người Cuba đã đi phục
vụ trên toàn thế giới. Hiện nay khoảng 37.000 bác sĩ và y tá Cuba đang làm việc
tại 77 quốc gia. Họ tạo ra luồng trao đổi ngoại tệ trị giá khoảng 8 tỷ đô la Mỹ
mỗi năm.
Ngoài
ra, Cuba chữa trị và đào tạo y tế miễn phí cho hàng ngàn người nước ngoài mỗi
năm. Là một sáng kiến trực tiếp của Fidel, vào năm 1999 Trường Y Mỹ Latinh đã
được khánh thành tại Havana để cung cấp chương trình đào tạo 6 năm miễn phí cho
sinh viên nước ngoài từ các nước nghèo, chỗ ở hoàn toàn miễn phí. Năm 2004,
Cuba đã hợp tác với Venezuela phẫu thuật mắt miễn phí cho người dân ở nhiều
nước thuộc Chương trình Operation Miracle (Chiến dịch Phẫu thuật Điều diệu kỳ).
Trong mười năm đầu tiên hơn 3 triệu người đã tìm lại được ánh sáng.
Mỹ
thậm chí cấm vận buôn bán thuốc đối với Cuba nhưng lệnh cấm vận đã khiến Castro
ưu tiên đầu tư vào y học. Cuba hiện đang sở hữu khoảng 900 bằng sáng chế, bán
dược phẩm và vắc xin tại 40 quốc gia, đem lại doanh thu 300 triệu đô la mỗi
năm, với tiềm năng mở rộng rất lớn. Ngành dược của Cuba sản xuất hơn 70% các
loại thuốc cho 11 triệu dân Cuba sử dụng. Toàn bộ ngành công nghiệp dược thuộc
sở hữu nhà nước, các chương trình nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của người dân, và
tất cả thặng dư được tái đầu tư vào lĩnh vực này. Nếu không có kế hoạch nhà
nước và đầu tư công không chắc điều này có thể đạt được tại một nước nghèo.
Vào
giữa những năm 1980 Cuba phát triển vắc-xin viêm màng não B đầu tiên trên thế
giới. Ngày nay, Cuba dẫn đầu trong các loại thuốc trị ung thư. Trong năm 2012
Cuba cấp bằng sáng chế vắc-xin điều trị ung thư đầu tiên. Lệnh cấm vận của Mỹ
đã buộc Cuba phải tìm mua các loại thuốc, thiết bị y tế và các sản phẩm X quang
từ các nguồn bên ngoài nước Mỹ, khiến phát sinh thêm chi phí vận chuyển.
4. Nền
kinh tế chia sẻ
Năm
2009 Tổng thống Rafael Correa của Ecuador đã bảo tôi: “Một tấm gương tuyệt vời từ
Cuba đó là trong nghèo đói, Cuba đã biết cách chia sẻ, thông qua tất cả các
chương trình quốc tế của mình. Cuba là quốc gia có sự hợp tác vĩ đại nhất nếu
so với tổng sản phẩm nội địa, và đây là một tấm gương cho tất cả chúng ta. Điều
này không có nghĩa rằng Cuba không có vấn đề lớn, nhưng chắc chắn là không thể
đánh giá sự thành công hay thất bại của mô hình Cuba nếu không xét đến sự phong
tỏa của Mỹ, một cuộc phong tỏa đã kéo dài 50 năm. Ecuador sẽ không thể tồn tại
được 5 tháng với sự phong tỏa đó.”
Về
lệnh cấm vận: chính phủ Cuba ước tính lệnh cấm vận đã làm cho đảo quốc tổn thất
753,69 tỷ đô la Mỹ. Báo cáo hàng năm của Cuba gửi cho Liên Hiệp Quốc thể hiện
chi tiết tính toán này. Đây là con số rất lớn đối với một nước có GDP bình quân
giai đoạn 1970 – 2014 là 31,7 tỷ đô la Mỹ.
Vâng,
Castro có vai trò chính yếu đối với những sai lầm và thiếu sót trong nền kinh
tế kế hoạch của Cuba. Vâng, hoàn toàn có quan liêu, năng suất thấp, khủng hoảng
thanh khoản, nợ nần và nhiều vấn đề khác – nhưng nước nào không có? Castro đã
chỉ ra những yếu kém này trong các bài phát biểu của mình trước nhân dân Cuba.
Nhưng Tổng thống Correa đã đúng – để đánh giá một cách khách quan di sản của
Castro, sự phát triển của Cuba và những cải cách ngày nay, chúng ta không thể
vờ như sự phong tỏa của Mỹ (hiện nay vẫn còn dù đã có xích lại gần nhau) là
không có tác động đến cơ cấu của nền kinh tế Cuba.
Castro
đã chứng kiến gần 11 đời tổng thống Mỹ kể từ năm 1959, nhưng ông không bao giờ
sống đủ lâu để để nhìn thấy sự kết thúc lệnh cấm vận của Mỹ. Với những cải cách
kinh tế đang được tiến hành và với việc phục hồi quan hệ với Hoa Kỳ, Cuba phải
đối mặt với những thách thức mới. Tuần tới, tôi sẽ bắt đầu một nghiên cứu mới ở
Cuba để đánh giá sự dẻo dai của cuộc cách mạng trong giai đoạn hậu Castro và
thời đại Donald Trump này.
Helen
Yaffe
Huỳnh
Ngọc Dũng biên dịch
*Helen
Yaffe là nghiên cứu viên ngành lịch sử kinh tế, Trường Kinh tế và Khoa học
chính trị London.
Nguồn: Helen
Yaffe, “Cuba is poor, but who is to blame – Castro or 50 years of US
blockade?”, The Conversation, 02/12/2016.
*
Phát biểu của chủ tịch Fidel trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên vào tháng
9/1973. Ông cũng là vị nguyên thủ nước ngoài đầu tiên và duy nhất thăm
vùng giải phóng miền Nam khi chiến tranh chưa kết thúc. Trong những năm
tháng khó khăn nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, câu nói của Fidel
đã làm rung động bao trái tim của nhân dân Cuba và nhân dân Việt Nam, cũng như
hàng triệu người có lương tri trên thế giới. Hình ảnh vị Tổng Tư lệnh với
bộ quân phục màu xanh ôliu đứng trên nóc một lô cốt cũ của địch, phất cao lá cờ
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, là sự cổ vũ vô cùng to lớn đối với đồng bào chiến
sĩ ta lúc đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét