Thứ Năm, 31 tháng 8, 2023

Thứ Tư, 30 tháng 8, 2023

Tâm Từ ...

TÂM TỪ ...

Thực ra Tâm Từ có nghĩa là Tâm Không Sân. Khi Tâm Không Sân với chính mình, với những người xung quanh và với mọi sự mọi vật thì đó là đang rải Tâm Từ đến họ một cách tự nhiên và chính xác nhất, chứ không phải khởi tâm chủ quan theo ý mình hay gượng gạo theo một công thức nào nhất định.

Hồi hướng cũng vậy, cần thành tâm hơn là đọc thuộc lòng theo bài

 

Thầy Viên Minh

Hồi hướng

 

HỒI HƯỚNG

Hồi hướng là một phương pháp thực hành chứ không phải chỉ đọc tụng suông “Nguyện đem công đức này, hồi hướng cho tất cả …”. Khi có nhu cầu gởi Tâm Niệm Lành chuyên chở yêu thương đến người khác, thay vì chúng ta chỉ biết cầu nguyện, khẩn vái .. chúng ta nên làm những việc Thiện và hồi hướng Phước Lành đó đến đối tượng mà chúng ta hướng đến. Hiệu lực của việc hồi hướng tuỳ thuộc vào Tâm Ý của chúng ta khi hướng đến đối tượng thọ nhận cùng với Thiện Pháp đã làm.

Phương pháp hồi hướng trong đạo Phật rất đơn giản. Người làm việc lành, với Tâm Từ Bi rộng mở, Phát Tâm và Mong Cầu cho người khác (hoặc tất cả chúng sanh) cũng được hưởng Phước Lành từ việc Thiện mình đã làm. Việc Hồi Hướng căn bản là hoạt động của Tâm. Tâm Lành này có thể được diễn đạt thành lời hoặc chỉ khởi niệm trong tâm, tùy người hồi hướng và ngữ cảnh. Sự thể hiện bên ngoài của việc hồi hướng có tác dụng về mặt ngữ cảnh hơn là hiệu lực của chính việc cầu nguyện. Có sự chứng kiến của người khác hay không, không thành vấn đề. Người được hồi hướng biết hay không, điều đó không quan trọng lắm. Điều quan trọng là năng lượng lành đó với ý nguyện đó, lòng Từ Bi đó .. phải có nơi người thực hành, và tất cả những năng lượng đó đã được gởi đi. Hay nói cách khác, người được hồi hướng thọ hưởng được phần phước công đức hay không, không tùy thuộc vào hình thức (cách diễn đạt) mà tùy thuộc vào nội dung hồi hướng (tấm lòng). Tất nhiên, để thực hiện việc hồi hướng, hành động thiện lành của thân là cần thiết. Như vậy, để hoàn thành một ‘chu trình’ hồi hướng, người hồi hướng cần phải nỗ lực làm lành cả ba phương diện: ý hành, ngữ hành và thân hành.

 

- st -

Thứ Ba, 29 tháng 8, 2023

Lên Giời à

LÊN GIỜI À

...

- Không tin xã bà lên huyện. Không tin huyện bà lên tỉnh. Không tin tỉnh, chắc bà lên trung ương?

- Vâng

- Nếu không tin trung ương thì bà lên đâu, lên Giời à?

- Nếu như lên được. Khốn nỗi không có Giời. Ngày xưa còn đổ cho Giời được, bây giờ biết là chỉ còn có người thôi. Chứ nếu có Giời, thì tôi cũng lên. Hoặc nhờ bác Phạm Tuân bác ấy cầm đơn lên gửi Giời hộ.

 

Lưu Quang Vũ

Trích vở “ Lời thề thứ 9 ”

*Ảnh chụp cuốn lịch tại căn nhà 6m2 của Lưu Quang Vũ & Xuân Quỳnh




https://vnexpress.net/loi-the-thu-9-kich-gui-gam-thong-diep-ve-tinh-quan-dan-3802195.html

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2023

Nguyên nhân tục

Chúng ta có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng gia tiên về ngày rằm tháng bẩy đâu?... Đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên... Vàng mã ở kinh sách nào? Nếu các ngài tìm thấy, bần tăng này xin cam tâm vào địa ngục để chịu lấy tội vong hữu ".

- Hòa thượng Tố Liên -

 

 

 

 

NGUYÊN NHÂN TỤC ĐỐT VÀNG MÃ

Ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy.

Chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa từ đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 tr. TL) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế.
Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v... để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy. Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết. 

Đến đời nhà Ân (1765 tr CN) lại không dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa. Thay vào đó các đồ tế khí toàn dùng đồ thật chôn theo.

Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, giữa người chết đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân để chôn theo. Còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội "tiếm lễ".

Không chỉ thế, dã man, độc ác nhất là người ta còn đặt ra tục Tuẫn Táng. Tức khi vua quan chết từ vợ con đến bộ hạ của các vua quan lớn, đồ yêu quí khi còn sống sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi chết. Sách Tả Truyện chép: "Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: Ba anh em họ Tứ xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay".

Về sau người ta cũng biết rằng đem người sống chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ “sô linh”, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng người gỗ “Mộc ngẫu” như trước. sách Trang Tử chép rằng: “Vua Mục Vương nhà Chu (1001 tr CN) có người tên là yến sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền nổi lòng phẫn uất mà thống mạ rằng: “Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân”. Thầy mạnh tử cũng ác cảm với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu độc rằng “ Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự”.

Đến đời nhà Hán, người ta mới bỏ tục lệ tuẫn táng, không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ con tôi tớ, người đã chết ra để ấp mộ. còn các đồ ăn mặc hành dùng của người chết kia khi còn sống dùng những thứ gì khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng đá, voi ngựa bài trí chung quanh phần mộ.

Đến giai đoạn này ta bắt đầu thấy nguyên nhân của tục đốt vàng mã giấy. Đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy vỏ cây dó và giẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc quần áo… đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách: “ Thông giám cương mục” có chép: " vì vua Huyền Tôn, mê thuật quỉ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan thái thường bác sĩ để coi việc chế vàng mã dùng khi nhà vua có tế lễ ". Chúng ta có thể liệt Vương Dũ là hàng Thuỷ tổ nghề vàng mã.

Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Thế thì tại sao ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên?. Chúng ta có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng gia tiên ngày rằm tháng bảy.
Nguyên nhân của tục đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này: Vào thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: " rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng ". Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu, việc này lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa.  Phần lớn dân chúng ngày đó hầu như tỉnh ngộ cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã khiến cho các nhà chuyên sinh sống về nghề làm vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ người đã đặt chế ra đồ vàng mã. 
Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề làm hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm rồi chết, tin được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài, kẻ giả chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: "Các Thần Thánh trong Tam, Tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế". Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và Thánh Thần trong Tam, Tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. 

Từ đấy các nghề vàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì rằng không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã mà cả Thiên địa quỷ thần trong Tam, Tứ Phủ cũng phải tiêu dùng vàng mã nữa và cố nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách " Trực Ngôn Cảnh Giáo "

Như thế, chúng ta nên thẳng thắng nhìn nhận rằng: Đặt ra tục đốt vàng mã, làm hình nhân thế mạng vào lễ Tam, Tứ Phủ là bắt đầu từ Vương Luân - thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa. Người Trung Hoa đô hộ Nước Ta hơn 1.000 năm. Phong tục của Họ như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. 

Những cái thuyết "Chôn đồ, đốt mã, gởi kho là cái hủ tục bởi bệnh mê tín của nước Trung Hoa truyền nhiễm sang Việt Nam, chứ nguyên lai đạo Phật, đạo Nho không bao giờ có. Ông Vương Nhựt Hưu là tiến sĩ, làm quan đến chức Quốc học sĩ cũng nói: "Đã khảo cứu hết Kinh sách không thấy chỗ nào có sự gởi kho và trả nợ trong đạo Phật"".

Chúng ta có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng gia tiên về ngày rằm tháng bẩy đâu?... Đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên... Vàng mã ở kinh sách nào? Nếu các ngài tìm thấy, bần tăng này xin cam tâm vào địa ngục để chịu lấy tội vong hữu.

Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi, và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy. 

 

Hoà thượng Tố Liên

Nguồn : Báo Đuốc Tuệ - 1952 

 

* Đại lão Hoà Thượng Thích Tố Liên (1903-1977) là một tu sĩ Phật giáo có nhiều công lao trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đưa Phật giáo Việt Nam hòa nhập với Phật giáo Thế giới giai đoạn giữa thế kỷ 20. Năm 1951, ông là sáng lập viên kiêm Tổng thư ký của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức thống nhất Phật giáo toàn quốc, tiền thân của Giáo hội Phật giáo thống nhất Việt Nam sau này.

Bài tuyên truyền bài trừ vàng mã "Nguyên nhân tục lệ đốt vàng mã" của hòa thượng Tố Liên được đăng trên báo Đuốc Tuệ (cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Bắc Kỳ thời trước Cách mạng tháng 8) số ra năm 1952. Bài viết ra đời trong bối cảnh phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ 20 của các cao tăng và cư sĩ trí thức với mục đích loại bỏ những đám mây mê tín dị đoan, làm cho bầu trời văn hóa Phật giáo Việt Nam trở nên trong sáng hơn.