Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2024

SƯ MINH TUỆ

Sư Thích Minh Tuệ có thế danh là Lê Anh Tú, sinh năm 1981 tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh, trong một gia đình có 6 anh em. Sư học hết phổ thông thì đi nghĩa vụ quân sự. Sau khi xuất ngũ, Sư chuyển sang học trung cấp rồi về làm công việc đo đạc địa chính tại tỉnh Đắk Lắk cho 1 công ty tư nhân. Đến năm 2015, Sư quyết định từ bỏ công việc để xin xuất gia tu tập tại một ngôi chùa ở Đắc Lắc với pháp danh là Thích Minh Tuệ. "Minh có nghĩa là sáng, tuệ là trí tuệ, ý nghĩa cái tên là con đường soi sáng. Sau này khi cảm thấy không còn duyên ở chùa, con ra ngoài và vẫn giữ pháp danh này", Sư giải thích. Sau vài tháng ở chùa Sư thấy không thích hợp nên đã phát nguyện theo phương pháp tu hạnh khất thực như hiện tại. 

Hạnh Đầu Đà là một phương pháp tu tập trong Phật giáo, bao gồm việc mặc áo vá, ăn một bữa mỗi ngày, ngủ dưới gốc cây hoặc nơi nhà hoang, nghĩa địa, không nhận tiền cúng dường, từ chối mọi tiện nghi và hưởng thụ.

Được biết Sư đã thực hành pháp môn hạnh đầu đà được 6 năm, và đi bộ hành từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam đến hiện tại là lần thứ tư.

Sư Minh Tuệ luôn nói mình chỉ là người "tập học”, cố gắng sống đúng theo lời Phật dạy, Sư không nhận làm thầy hay dạy dỗ bất kỳ ai, luôn một mực xưng “con” với tất cả mọi người. Nếu có ai hỏi về phương pháp tu hành thì Sư không nói điều gì cao siêu huyền bí cả, luôn luôn là “giữ giới”, phát nguyện tu theo hạnh nguyện của bậc chánh đẳng, chánh giác, cố gắng "bố thí”, làm việc tốt. Sư chia sẻ: “Hành trình của con là muốn bộ hành trọn đời. Mục đích không nhằm truyền tải điều gì, bởi mọi điều trong Phật pháp đã có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rồi. Con chỉ muốn thực hành những lời dạy của đức Phật, nhằm giúp hoàn thiện bản thân. Lúc đi bộ con luôn ước nguyện cho mọi người khi nào cũng được hạnh phúc, sống vui vẻ với gia đình”

Nghe và xem những lời của Sư thấy toát lên một sự chân chất, thật thà, quê mùa ..

Khi có người xin đi theo, Sư đáp: "Nếu thấy an lạc, hạnh phúc thì cứ đi, con không mời cũng không xua đuổi ai cả”.

...


Nguồn Tổng Hợp

Trên con đường tập học

Trên con đường .. Tập Học

TRÊN CON ĐƯỜNG .. TẬP HỌC

Từng bước, từng bước chân

Trên nẻo đường vạn dặm

Đầu trần đội mưa, nắng

Thân gầy trong gió sương 

Tối nghỉ, sáng lên đường

Xin ăn, ngày một bữa

Bỏ cả nhà, cả cửa

Bỏ giấc mộng giầu sang

Tiền bạc cũng chả màng

Sư đi tìm An Lạc

Nồi cơm thay bình bát

Y vá đủ sắc mầu

Tâm niệm chỉ một câu

Hành theo lời Phật dậy


Mùa Phật Đản

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2024

Và té ra ...

 VÀ TÉ RA ...

Mấy hôm nay cư dân mạng bàn nhiều về sư Minh Tuệ, nhà cháu không rành lắm món này nên không quan tâm. Không quan tâm nhưng cứ đập vào mắt, nên bèn phải quan tâm. Và vì quan tâm nên cuối cùng lại bị ông này khuất phục, và giờ thì, rất nể ông này.

Này nhé, rất trẻ, từng đi bộ đội, bố mẹ còn. Đùng phát xuất gia. Và không tuyên ngôn, không rao giảng, không đệ tử, ông lẳng lặng làm điều mình cho là đúng, là Sư Minh Tuệ thực hành 13 Hạnh Đầu Đà.

Và té ra để làm được điều mình cho là đúng ấy khó vô cùng.

Trước hết là bị các "thầy có danh" tấn công, có ông thầy tấn công sư Minh Tuệ rất chợ búa, rất... xôi thịt, như thể ông Minh Tuệ cướp đi của ông ta miếng thịt đã sắp vào miệng.

Sau nữa là bị các đệ tử làm phiền, dù ông nói rất nhiêu lần, không nhận ai làm đệ tử, ai đi theo ông là làm bạn ông, thầy ông, chứ ông không làm thầy ai.

Chuyện ông đi trên đường té ra bây giờ là việc hết sức khó khăn khi xung quanh ông luôn có hàng trăm người, hâm mộ có, yêu quý có, phật tử có và tò mò cũng có, ticktoker có, facebooker có vân vân, khiến cho có người lo lắng, rằng các nhu cầu cá nhân của ông sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, ví dụ... đầu ra.

Có cái clip ông đi bộ qua Vinh, những người yêu và ủng hộ ông phải đi vòng ngoài, nắm tay nhau để bảo vệ ông, để ông không bị quấy rầy bởi những người tò mò, hâm mộ và cả hàng trăm máy quay, điện thoại livestream.

Có chị phụ nữ biếu ông chai nước, ông cám ơn, nói mình có rồi xin phép không nhận, nhưng vẫn lôi ông đứng lại hỏi chuyện, vấn đề là, tay kia lăm lăm cái điện thoại đang quay và hỏi những câu chả ăn nhập gì.

Than ôi, giờ muốn tịnh tâm mà hành đạo cũng khó quá.

Tới tận khi mệt, kiếm được gốc cây ngồi nghỉ, ông vẫn bị bao vây bởi các... máy điện thoại và những câu phỏng vấn, có những câu rất ngô nghê, hỏi để mà hỏi, hỏi để mình có mặt trong khuôn hình...

Nhưng nghe ông nói chuyện thì rất thích. Mộc mạc, chân thành, không rao giảng, xưng con chứ không xưng thầy với ai. Khác hẳn mấy ông nhà cháu hay thấy trên ticktok, béo nhẫy, to béo, rao giảng như... thầy, lên xe xuống thảm...

Và té ra, hình như ông ở Gia Lai, hình như ông đã học ở trung cấp Lâm Nghiệp Gia Lai (hình như thôi ạ, nhà cháu nghe một nhóm các bạn trẻ bảo nhau thế).

Ông xứng đáng là một hiện tượng, khi mà cả đời và đạo bây giờ đều rất... không tĩnh lặng. Và ông cần tĩnh lặng để thực hiện ước nguyện của mình. Ôi có khi rồi ngài lại phải ngửa cổ lên mà than: ai cho tôi tịnh tâm.


Văn Công Hùng

*Photo: Net


Thứ Năm, 9 tháng 5, 2024

Zhuravli (Đàn sếu) - Mark Bernes

Tôi cứ ngỡ biết bao người lính trẻ

Từ chiến trường xưa đẫm máu không về

Không phải họ nằm yên trong đất mẹ

Mà hóa thành sếu trắng giữa trời kia

 



NGÀY CHIẾN THẮNG

Ngày chiến thắng 9/5 là ngày Lễ được kỷ niệm rất trọng đại ở nước Nga và ở nhiều quốc gia khác. Ở Liên Xô trước đây và ở nước Nga ngày nay, vào dịp này, ngoài các bài hát hào hùng như "Cuộc chiến tranh thần thánh", "Ngày chiến thắng"..., người ta còn hát những ca khúc của một thời lửa đạn, như "Ôi, những con đường", "Đêm đen", "Chiếc khăn xanh", "Chiều hải cảng"..., và không thể thiếu bài "Đàn sếu", bài hát đã trở nên rất quen thuộc với nhiều người Việt Nam chúng ta. "Đàn sếu" da diết như một lời tưởng nhớ đến những người con của Tổ quốc đã vĩnh viễn nằm xuống trong lòng đất mẹ vì Ngày Chiến Thắng. Trái với hình dung của nhiều người, bài hát này không nằm trong bộ phim nổi tiếng "Đàn sếu bay qua", cũng không hề được sáng tác trong thời gian Chiến tranh vệ quốc 1941-1945. Mà nó được sáng tác vào năm 1968, 23 năm sau Ngày chiến thắng. Rasul Gamzatov là nhà thơ nổi tiếng người Avar, Daghestan, một nước Cộng hòa tự trị của Liên xô. Ông được bạn đọc Việt Nam biết đến nhiều hơn qua cuốn "Daghestan của tôi", bản dịch của Phan Hồng Giang (phần dịch thơ của nhà thơ Bằng Việt). Rasul Gamzatov đã viết bài thơ "Đàn sếu”bằng tiếng Avar, sau đó được người bạn cùng học ở trường Đại học là Naum Grebnev chuyển ngữ sang tiếng Nga. Grebnev từng là lính tham gia Cuộc chiến tranh vệ quốc, bị thương 3 lần, do vậy, khi dịch "Đàn sếu”sang tiếng Nga, ông đã có một sự đồng cảm rất lớn với Rasul Gamzatov để có một bản dịch thành công. Năm 1968, bài thơ "Đàn sếu”qua bản dịch của Grebnev xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí "Thế giới mới”(Новый мир). Một ngày, tình cờ ca sĩ Mark Bernes đọc được bài thơ này. Cũng cần nói thêm, Mark Bernes thời gian này rất nổi tiếng khi thể hiện các bài hát chủ đề chiến tranh. Bản dịch đầu tiên khi in trên "Thế giới mới”có 2 dòng đầu tiên như sau: Мне кажется порою, что джигиты, С кровавых не пришедшие полей (Tôi cứ ngỡ bao người lính kỵ binh Từ chiến tường xưa đẫm máu không về) 

Đọc xong bài thơ, Mark Bernes liền gọi điện cho dịch giả Naum Grebnev, nói rằng muốn bài thơ được phổ nhạc. Hai người trao đổi với nhau một số thay đổi nhỏ trong bản dịch, và Grebnev đã đồng ý thay từ "kỵ binh”trong dòng đầu thành "người lính". Sau này, nhà thơ Gamzatov nhớ lại: "Tôi cùng với dịch giả cho rằng đề xuất của Mark Bernes là hoàn toàn hợp lý, đổi từ "kỵ binh”sang "người lính". Khi đó, chiều kích của bài hát sẽ trở nên rộng hơn". Với bài thơ đã có đôi chỗ sửa đổi, Mark Bernes đến gặp nhạc sĩ Yan Frenkel, yêu cầu ông phổ nhạc. Việc phổ nhạc cho bài thơ quả thực không dễ dàng một chút nào, phải mất đến hơn 2 tháng. Yan Frenkel nhớ lại: “Tôi gọi cho Bernes, anh ấy đến ngay, nghe bài hát và... khóc. Anh ấy không phải là người dễ mủi lòng, nhưng không hiếm trường hợp, anh ấy khóc khi gặp một điều gì đó thật sự thích". Mark Bernes ghi âm bài hát "Đàn sếu”trong tình trạng sức khỏe bị suy kiệt. Đây là bài hát cuối cùng trong sự nghiệp ca sĩ của ông.

Nhạc sĩ Iury Rabinovich nhớ lại: “Sau khi nghe phần nhạc, Bernes muốn thu âm bài hát càng nhanh càng tốt. Dường như anh ấy dự cảm được cái chết của mình và muốn bài hát này sẽ đặt dấu chấm cuối cùng cho cuộc đời mình. Việc ghi âm bài hát tiến hành thật gian nan. Nhưng anh ấy đã dũng cảm vượt qua và ghi âm thành công "Đàn sếu". Đúng vậy, đó là bài hát cuối cùng trong đời anh ấy". Bài hát được giới thiệu với đông đảo công chúng qua đĩa hát "Những bản ghi âm cuối cùng", sau khi ca sĩ Bernes qua đời (1969) và nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Mấy năm sau ngày bài hát "Đàn sếu" ra đời, trên mảnh đất các chiến trường xưa, người ta đã dựng các tượng đài, phù điêu với biểu tượng đàn sếu bay. Hình tượng đàn sếu trong bài hát đã trở thành biểu tượng cho sự tưởng nhớ những người đã hy sinh trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Ở Liên Xô người ta đã dựng tượng đài "Đàn sếu”ở Saratov và Leningrad (Saint Peterburg).

Từ năm 1986, trên quê hương Daghestan của Rasul Gamzatov - hàng năm đều đặn tổ chức "Ngày lễ sếu trắng" - Ngày tưởng nhớ những người lính đã hy sinh. 


Phan Việt Hùng




Ngày .. Kỷ Niệm

Nước Nga ko đi xâm lược mà những kẻ xâm lược là quân đội và chính quyền của Putin. Những bộ phim, bài hát, thơ, truyện mà chúng ta từng yêu mến thuộc về LB Xô viết - bao gồm cả Ukraine. Hồng quân thời đó cũng có những phương diện quân Ukraine, Belarusia ... Ngày kỷ niệm chiến thắng này ko chỉ dành riêng cho nước Nga mới thời Putin, mà cho tất cả các dân tộc thuộc liên bang Xô viết trong đó có binh lính và nhân dân Ukraine. 


* Photo: ảnh cựu thiếu tướng trong quân đội Liên Xô, Mykhailo Puhno, 87 tuổi ( công dân Ukraina ) đặt hoa tại đài tưởng niệm chiến tranh được bảo vệ bằng bao cát ở Kyiv, Ukraina, hôm 9/5/2022

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2024

Già & .. Chín Chắn

 GIÀ & .. CHÍN CHẮN

Khác biệt lớn, khác biệt bao la, và đa phần mọi người vẫn còn bị nhầm lẫn về hai thứ này. Mọi người thường nghĩ già nghĩa là chín chắn, nhưng không phải.

Già là việc của thân thể. Mọi người đều già đi, nhưng không nhất thiết họ sẽ chín chắn. Chín chắn là trưởng thành bên trong.

Già đi không phải là điều bạn có thể làm, nó là cách tự nhiên vận hành với cơ thể bạn. Mọi đứa trẻ được sinh ra, khi thời gian trôi qua, đều sẽ trở nên già. Không có gì đặc biệt với nó.

Nhưng chín chắn là cái gì đó bạn phải làm, bạn phải nỗ lực để đạt tới, bạn phải cố gắng để đem đến cho cuộc sống của bạn. Nó tới từ nhận biết. Khi một người già đi với nhận biết đầy đủ, người đó trở nên chín chắn. Già đi cộng với nhận biết, kinh nghiệm cộng với nhận biết, là chín chắn.

Bạn có thể kinh nghiệm cuộc đời mình theo hai cách. Một là cách của ngủ, vô nhận biết, sống cuộc sống như thể bạn bị thôi miên: Bạn cứ làm mọi sự nhưng không chú ý lắm tới những điều đang xảy ra. Sự việc cứ xảy ra nhưng bạn không có đó. Sự việc cứ xảy ra nhưng không cái gì đọng lại trong bạn, không nốt nhạc nào ngân lên, không dấu vết gì để lại. Bạn chẳng học được gì từ những thứ đã và đang xảy ra. Mọi thứ đã xảy ra đều trở thành kí ức của bạn, nhưng chúng chưa bao giờ trở thành bản thể mới của bạn. Ký ức trở thành như rác bị chôn vùi, giấu kín, chúng chưa được tiêu hoá thành máu và xương mới của bạn. Bạn chưa bao giờ trưởng thành qua chúng.

Thế thì thời gian trôi, bạn chỉ già đi, không gì khác.

Nhưng nếu bạn đem phẩm chất của nhận biết cho kinh nghiệm, thì cùng kinh nghiệm đó trở thành sự chín chắn. 

Cho nên có hai cách sống: một, sống trong giấc ngủ say, thế thì mọi khoảnh khắc bạn đều trở nên già đi.

Hay bạn có thể sống cuộc sống của bạn với sự mãnh liệt, với sự quan sát sâu sắc và với nhận biết, thế thì bạn trở nên chín chắn, bạn không chỉ già đi. 

Già đi không có nghĩa là trí huệ. Nếu bạn đã là kẻ ngu khi bạn còn trẻ và bây giờ bạn trở nên già, thế thì bạn chỉ là kẻ ngu già, có vậy thôi. 


Việc chỉ già đi mà không trở nên chín chắn, là bạn đang phí hoài bản thân mình, bạn đang phí hoài cuộc sống.


Thầy Osho

Trích: “Đạo - Ba kho báu”

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2024

Điện Biên Phủ ...

ĐIỆN BIÊN PHỦ ... 

“ Qua miền Tâу Bắc núi vút ngàn trùng xa ... “


Cuối năm 1953, phát hiện quân chủ lực Việt Minh di chuyển lên Tây Bắc, tướng Henri Navarre quyết đinh tái chiếm một căn cứ cũ tại Điện Biên Phủ, cách Hà Nội 175 dặm về phía tây và sát với biên giới Lào để cản đường Việt Minh tiến vào vùng trồng lúa và cây thuốc phiện lớn.  

Ngày 20/11/1953, Tướng Cogny - tư lệnh chiến trường Bắc Bộ đã tổ chức cuộc hành binh Hải Ly cho quân nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ. Liên tục sau đó, lực lượng quân Pháp đồn trú ở Điện Biên được tăng cường thêm. Đến tháng 12/1953 đã lên tới 6 tiểu đoàn, khoảng 4.500 quân.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời nhằm án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào đồng thời làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công và sẽ bị nghiền nát tại đó.

Lúc đầu, Navarre chỉ coi Điện Biên là một cứ điểm bình thường nhằm ngăn chặn các hành động quân sự của đối phương. Nhưng khi phát hiện hai đại đoàn 308 và 312 đang di chuyển lên Tây Bắc, Navarre đã chú trọng tăng cường cho Điện Biên Phủ để nơi đây trở thành trận quyết chiến của hai bên. Trung tuần tháng 12 /1953, Navarre thông báo cho quân đồn trú ở Điện Biên là ông ta chấp nhận cuộc giao chiến với Việt Minh tại đây. Phương Tây coi đây là một sự chuyển hướng có tính chiến lược của Navarre, vì Điện Biên Phủ không nằm trong kế hoạch Thu Đông 1953 - 1954. 

Quyết định này dựa trên các yếu tố so sánh lực lượng mà phía Pháp thấy có nhiều lợi thế.

Trước hết, về hậu cần, trong khi quân Pháp có máy bay vận tải để tiếp tế thì Việt Minh chỉ có thể dùng sức người là chính vì đường sá tiếp cận Điện Biên rất xấu. Phép tính này cũng không lầm lẫn khi nguồn tiếp tế lương thực của Việt Minh là từ Khu 4, Việt Bắc và Trung Quốc. Cả 3 nguồn tiếp tế đó, khoảng cách quãng đường đến chiến trường từ 300 đến 400 km đều trong tình trạng đường rất xấu và dễ bị khống chế bằng không quân. Ngoài không lực từ Hà Nội, Hải Phòng có thể tiếp ứng thì quân Pháp ở Điện Biên cũng có máy bay ném bom ngay tại chỗ.

Hỏa lực pháo binh là yếu tố quan trọng trên chiến trường, Pháp có 24 khẩu pháo 105 mm và 4 khẩu đại pháo 155mm cùng gần 30 súng cối 120 mm. Trong khi Việt Minh khó có thể đưa được pháo lớn vào Điện Biên do địa hình hiểm trở. Nếu đưa được vào thì cũng sẽ bị hoả lực áp đảo của pháo binh Pháp tiêu diệt do phải đặt pháo ở sườn núi đối diện thung lũng mới đủ tầm bắn tới các cứ điểm vì thung lũng Mường Thanh dài 15 km và rộng hơn 5 km. Pháp lại có riêng 2 máy bay trinh sát chuyên lo việc phát hiện trận địa pháo nên trung tá Piroth – chỉ huy pháo binh ở Điện Biên tự tin hứa với Navarre rằng, sẽ tiêu diệt bất cứ khẩu pháo nào của Việt Minh sau 3 phút khai hỏa.

Bên cạnh ưu thế tuyệt đối về máy bay, Pháp cũng có ưu thế tuyệt đối về thiết giáp. Trong khi lực lượng Việt Minh chỉ là các đơn vị bộ binh thuần túy thì Pháp có ở đây 10 xe tăng. Địa hình bằng phẳng trong khu vực là một yếu tố địa lợi giúp quân Pháp phát huy ưu thế hỏa lực của máy bay, pháo binh và xe tăng trong khi Việt Minh thì không có chỗ ẩn núp.

Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm phòng ngự có hỏa lực mạnh. Toàn bộ khu vực gồm 49 cứ điểm được chia làm 3 phân khu. Các cứ điểm có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo những tính toán rất chi tiết. Khi đối phương tấn công vào một cứ điểm, hỏa lực mà họ gặp phải không chỉ của bản thân cứ điểm mà còn có hỏa lực của các cứ điểm xung quanh cùng với máy bay ném bom và pháo từ các trận địa trong trung tâm cứ điểm hỗ trợ.

Với những ưu thế đó, tướng lĩnh Pháp thậm chí còn lo lắng Việt Minh không tấn công thì công sức xây dựng cứ điểm Điện Biên sẽ vứt đi. 


Quyết định này của Pháp phù hợp hoàn toàn với mong đợi của các nhà lãnh đạo Việt Minh. Tại cuộc họp tháng 10 trong một căn nhà tre giản dị sâu trong núi, họ đã nhất trí rằng tranh chấp đồng bằng sông Hồng chỉ khiến quân Pháp được thi triển lực lượng và hỏa lực ngay sát căn cứ của họ. Mục tiêu của Việt Minh là phải dụ cho được đối phương và phân tán chúng, rồi tiến đánh khi chúng liều lĩnh tiến xa nhất. 

Khi biết kế hoạch Thu Đông 1953 - 1954 của Navarre là nhằm tập trung quân cơ động ở đồng bằng Bắc bộ để tìm diệt bộ đội chủ lực Việt Minh - Hồ Chủ tịch đã nói: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn."

Ngay từ tháng 4/1953 Việt Minh đã mở một mặt trận mới ở Lào để phân tán lực lượng của Pháp. Vào tháng 6, số thiết bị và quân nhu mà Trung Quốc viện trợ đã tăng từ 250 tấn trong cùng thời kì năm trước đến 2,000 tấn mỗi tháng, cùng với xe tải Molotova và xe ủi đất.

Lúc đầu bộ chỉ huy Pháp tại Hà Nội không biết Trung Quốc đã cung cấp cho Việt Minh các pháo tự hành M2A1 105mm của Mỹ mà họ đã tịch thu từ Quốc Dân Đảng cùng với súng cối 120mm và pháo cao xạ 37mm. Các vũ khí này giúp tăng cường hoả lực mạnh mẽ và trên hết là tầm bắn  – một quả pháo 105mm có thể bay đến mục tiêu từ ụ pháo cách đó khoảng 11,000 mét.

Lời kêu gọi quan trọng mà Tướng Giáp đưa ra là về hậu cần khi thuyết phục bộ chính trị rằng có thể kéo các khẩu pháo nặng hơn 2 tấn, vượt 500 dặm qua một số địa hình hiểm trở và duy trì tiếp tế hàng tháng trời cho lực lượng vây hãm gồm 4 sư đoàn. Việt Minh đã ban hành lệnh tổng động viên dân công trên toàn ‘vùng giải phóng’ trong ngày 6 - 12 .

Tướng Navarre và Cogny đã biết tin về bốn sư đoàn Việt Minh đang chuyển quân lên vùng núi phía bắc, nhưng vẫn không nắm được hướng đi và điểm đến do nhiều cuộc tấn công nghi binh của Việt Minh tại Cao nguyên Trung phần và châu thổ sông Hồng. Ngày 31/12, Tướng Navarre báo cáo về Paris rằng có khả năng căn cứ không thể bảo vệ được sau khi biết tin Việt Minh đang triển khai pháo tự hành ở Điện Biên Phủ.

Trong những tuần sau kỳ nghỉ năm mới, lực lượng đồn trú phát động một số cuộc xuất kích nhắm vào pháo binh Việt Minh, nhưng đều thất bại. Nỗ lực cắt đứt đường tiếp tế từ trên không cũng không thành công, một phần cũng vì hạn chế của phi đội B-26 Marauder.

Cách xa Điện Biên Phủ, Việt Minh tiến hành các cuộc tấn công biệt kích đêm nhằm làm tiêu hao không lực Pháp và đánh lạc hướng sự chú ý của Navarre. Hai mươi máy bay, phần lớn là C-47 quý giá, bị phá hủy trong các cuộc đột kích vào sân bay quanh Hà Nội và Hải Phòng. 

Trong tuần cuối của tháng giêng, quân đồn trú bị đặt trong tình trạng báo động cao. Tin tình báo cho biết Việt Minh sẽ tổng tấn công trong vài giờ tới. Nguồn tin này không sai -  đó là kế hoạch, nhưng Tướng Giáp đã quyết định lùi thời gian lại khi nhận định các điều kiện chưa chín muồi. Trận địa pháo trống trải dễ bị phản kích và dự trữ đạn pháo, đạn súng cối còn chưa được như mong muốn. 

Tiến trình ra khỏi Đông Dương của Pháp được đẩy nhanh hơn sau một phiên họp căng thẳng và khó khăn vào tháng giêng 1954 giữa các ngoại trưởng tại Berlin. Đại diện phía Liên Xô là Molotov thúc giục triệu tập một hội nghị có sự tham dự của Trung Quốc để giải quyết các vấn đề nổi cộm ở châu Á, nhất là Triều Tiên và Đông Dương. Hội nghị sẽ bắt đầu ở Geneva vào ngày 26/4 dưới sự chủ tọa của Anh và Nga.

Cả hai đội quân đang đối đầu ở Điện Biên Phủ giờ bị thúc ép trước tình hình khẩn trương mới, phải đạt được vị thế chiến trường mạnh nhất có thể trước bàn hội nghị. Paris đã bác bỏ đề nghị của nhà lãnh đạo Ấn Độ Jawaharlal Nehru cho một cuộc ngừng bắn ngay lập tức ở Đông Dương. Không chắc là Việt Minh sẽ chấp nhận một cuộc hưu chiến như thế, nhưng người Pháp đã bác bỏ một cơ hội – cơ hội cuối cùng có thể nghĩ ra – để rút lại tiền cá cược của mình đã đặt trên bàn Điện Biên Phủ.


Các cuộc không kích vào đường tiếp tế của Việt Minh không gây tác động nhiều trong khi phi cơ Pháp ngày càng phải đương đầu với hỏa lực ác liệt từ súng máy phòng không 12,7mm và pháo cao xạ 37mm của Xô viết.

Khi đạn pháo bất ngờ chụp xuống tiền đồn hoang vu ở phía tây Bắc Kỳ, người Pháp nhận ra một diễn tiến không ngờ khác từ phía Việt Minh. Theo kiến thức quy ước -  trận địa pháo nên được bố trí trên bờ nghiêng ngược lại, ngoài  tầm nhắm trực tiếp của đối phương. Vậy mà Việt Minh lại đặt các khẩu pháo trên mặt dốc phía trước - nòng pháo chĩa thẳng xuống các cứ điểm của De Castries. Dù ở vị trí đó, các khẩu pháo của Việt minh gần như không thể bị tổn thương bởi hỏa lực phản pháo, bởi vì chúng được giấu trong các đường hầm khoét sâu vào núi và chỉ được kéo ra khi lâm trận. Đồng bằng Điện Biên Phủ nằm trên độ cao 1,000 bộ so với mặt nước biển; vị trí cao nhất của Pháp cao hơn 600 bộ (khoảng 180 mét). Vậy mà chỉ cách đó khoảng 4,500 mét, Việt minh án ngữ một phòng tuyến trên đồi ở độ cao trung bình khoảng 1,100 mét. Pháo và súng cối của quân Pháp đặt trong hố bị phơi bày lộ liễu một cách kinh khủng.

Hàng tuần liền, bộ đội của Tướng Giáp chỉ đào, đào và đào. Họ đào chung quanh một mạng lưới hầm và hào để tiếp cận vành đai phòng tuyến Pháp. Các cứ điểm của Pháp tập trung trên 9 ngọn đồi, mỗi đồi được gắn một tên của phái đẹp. Isabelle và Béatrice được xem là mạnh nhất.

Vào ngày 11 /3, Việt Minh bắt đầu pháo kích vào các máy bay tại sân bay Mường Thanh và khống chế không phận bằng hỏa lực pháo cao xạ.

Chiều 13/3, Sư đoàn 312 tập kích cứ điểm phía đông - Béatrice ( Him Lam ), cách đường băng không đến 2 dặm.  Lúc 17:05, lực lượng phòng thủ chuẩn bị hỏa lực pháo và súng cối khi phát hiện Việt Minh bắt đầu chuyển quân thì Tướng Giáp đã ra tay trước. Một trận bão lửa của pháo và đạn súng cối hạng nặng ập xuống không chỉ Béatrice, mà còn vào các mục tiêu phân tán rộng khắp căn cứ, nhất là các vị trí pháo và bộ chỉ huy với độ chính xác cao. Tiểu đoàn Lê Dương Viễn Chinh với 450 người chống giữ Beatrice căng thẳng chờ đợi cuộc tấn công bằng bộ binh. Nhưng chỉ khi đêm xuống, bộ đội Việt Minh mới tràn lên từ những vị trí đã đào cách chu vi Béatrice khoảng 45 mét và giành được quyền kiểm soát Béatrice sau nửa đêm.

Lúc 18:00 giờ ngày 14, ngay trước khi mặt trời lặn, Sư đoàn 308 của Việt Minh bắt đầu tấn công cứ điểm Gabrielle( đồi Độc Lập ) xa hơn về phía bắc - được lực lượng Tirailleurs Algeria thứ 7 phòng thủ. Trận đánh ác liệt kéo đài đến tận đêm, dưới ánh sáng hỏa châu do máy bay Dakota thả xuống. Trong vài giờ đầu lực lượng phòng thủ bám vững trận địa, với sự yểm trợ của pháo gây nhiều khó khăn cho phía Việt Minh. Tuy nhiên, lúc 03:30 sáng, hoả lực pháo binh Việt Minh đã dội trúng đồn chỉ huy gây thương vong nặng nề. Quân Pháp hy vọng phản công vào rạng sáng nhưng binh lính Algeria đã chịu hết thấu. Lúc 07:00 ngày 15 khi các binh sĩ Việt Minh đầu tiên xuất hiện trên đỉnh Gabrielle thì lực lượng Tirailleurs, trong đó có một đại đội không hề giao tranh mà bỏ chạy tán loạn xuống đồi.

Sang ngày thứ ba của trận đánh, phân nửa kho đạn 27,000 quả pháo của quân đồn trú đã xài hết. Một phần ba pháo đội 155mm và hơn phân nửa đội súng cối 120mm thương vong. Người Pháp đã mất các vị trí quan sát tiền tiêu, thành ra các khẩu pháo còn lại buộc phải bắn gần như mù, lệ thuộc vào các mục tiêu trên các không ảnh chụp in ra giấy được thả dù xuống căn cứ. Chỉ huy pháo binh, Đại tá Piroth đã tự sát bằng một quả lựu đạn vì bất lực trước hỏa lực pháo của đối phương.

Hai ngày sau trôi qua không có sự cố gì. Các loa tuyên truyền của Việt Minh phát đi lời kêu gọi đầu hàng cho lực lượng phòng thủ bằng tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Ả Rập và Đức. Việc này không phải là không có tác dụng theo sau các loan báo về hội nghị Geneva sắp tới vì Cogny đã bổ sung vào lực lượng đồn trú Điện Biên Phủ một tiểu đoàn Việt và hai tiểu đoàn Thái được cho là không đáng tin cậy. Trong đêm 15/3, các vụ đào ngũ đã xảy ra tại tiểu đoàn Thái Lan án ngữ cứ điểm Anne-Marie( Bản Kéo ), cách Gabrielle một dặm rưỡi về phía tây - nam. Không lâu sau đó một trận pháo kích đẩy nhanh tiến độ tháo chạy trên diện rộng. Anne-Marie 1 và 2 rơi vào tay Việt Minh gần như không tốn một giọt máu và họ nhanh chóng triển khai ở đó dàn súng cối và súng không giật. Tinh thần chiến đấu của quân đồn trú vỡ vụn đến nỗi Việt Minh có thể tiến lên đánh chiếm toàn bộ căn cứ. Tuy nhiên, Tướng Giáp không muốn hấp tấp. Sự chuẩn bị kiên trì, có phương pháp đã có kết quả. Hơn nữa, các lực lượng tấn công cũng tổn thất nặng nề trong các thắng lợi ban đầu. Một phần tư bộ đội tấn công Béatrice được cho là đã hy sinh, và một tiểu đoàn tấn công Gabrielle tổn thất 240 người. Dưới làn mưa đạn pháo và đạn súng cối, lực lượng tấn công phải trả giá đắt vì thiếu thốn mũ sắt, và cách tấn công ‘biển người’ ban đầu. 

Vào ngày 28, pháo của Việt Minh đã phá hủy một máy bay Dakota trên đường băng. Đường băng không còn hữu dụng gì nữa. ‘Cầu không vận’ - điểm tựa để kế hoạch Điện Biên Phủ được xây dựng đã tan tác. Binh sĩ bắt đầu tháo dỡ những tấm thép từ đường băng để lợp nóc hầm và boongke.

Việt Minh tung ba phần tư lực lượng chính quy của mình vào Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, cho dù trận chiến đang tiếp diễn, lực lượng du kích của Họ vẫn duy trì sức ép ở nơi khác, để phân tán quân lực Pháp. Có đọ súng xảy ra trong vùng châu thổ sông Hồng và xa hơn về phía nam. Giữa tháng 2 và giữa tháng 5 nhiều đồn Pháp bị đánh chiếm. Pháp ra sức phòng thủ các vị trí trên khắp Việt Nam và sâu trong đất Lào.

Trong khi De Castries chiến đấu ở Điện Biên Phủ, thì tại Washington, London và Paris các cuộc thảo luận - đúng ra là tranh cãi nảy lửa xảy ra khi Đô đốc Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân ra sức vận động cho đề xuất mang tên ” Chiến dịch Kền kền".

Theo đó, Mỹ sẽ dùng 60 máy bay ném bom hạng nặng B-29 từ căn cứ không quân ở Philippines để ném bom rải thảm, mỗi đợt khoảng 450 tấn bom, xuống các vị trí của Việt Minh ở Điện Biên Phủ cùng với sự hộ tống của 150 máy bay chiến đấu từ Hạm đội 7. Ngoài loại bom thường (2 tấn/quả), Radford còn đề nghị sử dụng 3 quả bom nguyên tử chiến thuật để nghiền nát lực lượng Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Kế hoạch được sự ủng hộ của Tổng thống Eisenhower, Phó tổng thống Nixon, Dulles, tướng Nathan F.Twining (Tham mưu trưởng Không quân Mỹ). Rất may, nhiều người đã tán đồng ý kiến phản đối quyết liệt của Matthew Ridgway ( Tham mưu trưởng Lục quân ) nên kế hoạch đã bị đình chỉ. 

Đợt tiến công thứ 2 bắt đầu vào 16 giờ ngày 30/3. Các trận tấn công liên tiếp của 5 trung đoàn Việt Minh đánh chiếm các mục tiêu trên và chung quanh Eliane 1 do binh sĩ Algeria trấn giữ. Việt Minh khai hỏa pháo kích đúng giờ thông lệ 17:00, và phát động bộ binh một giờ sau. Mưa nặng hạt đã làm ngập úng các chiến hào và yểm trợ không lực gần như không thể thực hiện được. Trong khi đó, xa hơn về phía bắc - cứ điểm Dominique cũng bị bao vây. Sau gần bốn giờ giao tranh ác liệt, cứ điểm Eliane 1 sụp đổ. Cảnh tượng tương tự cũng xảy ra vào 22:00 ở Dominique 2.

Sáng ngày 31, một tiểu đoàn dù khác đã nhảy xuống Điện Biên Phủ và vào cuối ngày Pháp phản công chiếm lại Dominique 2, Eliane 1 để rồi nhìn chúng rơi trở lại trong cuộc tái tấn công của Việt Minh.

Vào khuya ngày 4/4, Pháp chính thức yêu cầu Mỹ viện trợ không lực cho Điện Biên Phủ. Tại Điện Biên Phủ, lực lượng tiếp viện vẫn được gửi đến. Một quyết định kịch tính được đưa ra khi Pháp phái đi nhóm quân tình nguyện chưa qua đào tạo về nhảy dù. Trong khi lực lượng bao vây tiếp tục đào hào tiến gần đến các mục tiêu tiếp theo thì sáng ngày 10/4 - đại tá Marcel Bigeard chỉ huy một cuộc phản kích vào Eliane 1. Lúc 11:30, sau trận đánh ác liệt họ đến được đỉnh đồi – rồi khựng lại với 60 binh sĩ thương vong. Hoàng hôn ngày 18/4, lực lượng đồn trú 100 người của Huguette 6 tháo chạy khỏi công sự.

Vào đêm 22 và ngày 23/4, bộ đội Việt Minh liên tục tiến đánh Huguette 1. Tướng De Castries ( được thăng hàm chuẩn tướng tại mặt trận vào ngày 16/4/1954 ) yêu cầu phản công, vì nếu mất Huguette 1 sẽ không còn không gian để thả dù tiếp tế. Lính dù dẫn đầu cuộc phản kích vào lúc 14:00 ngày 23/4, sau khi bốn chiếc Marauder và một tá chiến đấu cơ tiến hành không kích. Quân Việt Minh trên Huguette chịu tổn thất nghiêm trọng, nhưng do quân dù triển khai chậm 45 phút nên viện binh phía Việt minh cũng đã kịp bổ xung. Lính Pháp gặp hoả lực ác liệt và phải rút lui với thương vong nặng nề.

Tướng Navarre và Cogny bám vào các hy vọng - hoặc thời tiết mùa mưa tệ hại hơn sẽ khiến bộ đội của Tướng Giáp khó giữ vững nhịp độ tấn công vì lý do hậu cần, hoặc một cuộc ngừng bắn tại chỗ có thể được áp đặt bởi các cường quốc tại hội nghị ở Geneva. Họ thúc giục Paris rằng tiếp viện nhiều hơn sẽ cải thiện cơ may của quân đồn trú. Tất nhiên, điều này là vô lý vì không mấy người trong số phi hành đoàn còn muốn làm ra vẻ gắng sức, họ tống đại hàng tiếp tế ra khỏi máy bay từ 10,000 bộ - nên gần như phân nửa rơi vào tay đối phương. Nhiều trận dội bom được tiến hành mù, qua các đám mây.

Đêm 1/5, bộ đội Việt Minh tiến đánh Eliane 1 và chiếm được sau 90 phút cận chiến. Trong khi đó, quân phòng thủ Thái và Algeria trên Dominique 3, chống đỡ gan lì trước khi ngã quỵ. 

Cứ điểm Eliane 2 (đồi A1) giữ vai trò quan trọng vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực sở chỉ huy của De Castries và hai chiếc cầu trên sông Nậm Rốm. Trong trận đánh tại đây, quân Pháp thiệt hại 331 người chết hoặc mất tích và 168 người bị thương. Tướng De Castries chỉ còn hơn 2,000 binh sĩ chống lại 14,000 bộ đội của Tướng Giáp. Việt Minh tung ra vũ khí mới - Katyusha của Xô viết, dàn phóng tên lửa đa nòng, với tiếng rít gây chấn động tinh thần.

Việt Minh cũng tiến hành một cuộc tấn công vào Huguette 4 rạng sáng ngày 4/5. Trong 24 giờ tiếp theo quân đồn trú được bổ xung 383 lính tiếp viện bằng nhảy dù, trong đó có 155 người Việt. 

Sáng ngày 6/5, Tướng De Castries được tin tình báo về một trận tấn công lớn đêm đó. Vào lúc 21:30 một quả mìn của Việt Minh phát nổ bên dưới Eliane 2( A1 ), và rồi nó bị chiếm sau trận đánh chớp nhoáng dưới cơn mưa tầm tã. Đại úy Jean Pouget dẫn đầu một cuộc phản công bất thành. Một trận hỗn chiến ác liệt cũng nổ ra trên Eliane 4 và Eliane 10, khiến Langlais và Bigeard phải yêu cầu không kích ngay trên đầu rồi hủy bỏ cuộc nhảy dù tiếp viện vì vành đai phòng thủ bây giờ quá chật chội đến nỗi lính nhảy dù chắc chắn tiếp đất ngay trước mũi súng của Việt Minh. Thông điệp cuối cùng của sĩ quan chỉ huy Eliane 4, thất thủ sau 21:00 là đừng pháo kích vào vị trí đã thất thủ vì hào chứa đầy thương binh Pháp.

Lúc 17:00 ngày 7/5, Tướng De Castries điện đàm với bộ chỉ huy của Cogny, nói : ‘Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể . Đúng 17:30 tôi sẽ phái sứ giả.’ 

‘Ngài không được giơ cờ trắng. Ngài nên để trận đánh lụi tàn tự nhiên.’ - Tướng Cogny tìm cách ngăn cản một cuộc đầu hàng chính thức.

Rồi, từ boongke nhớp nhúa, ngột ngạt, De Castries ra lệnh phá hủy nhiều vũ khí có thể trước khi chính thức đầu hàng. Vị chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ không thể hiện phẩm chất có thể khiến ông là một anh hùng. Nhưng sẽ là hoàn toàn lầm lẫn khi cho rằng ông chịu trách nhiệm với việc thất thủ căn cứ, đã được an bày kể từ lúc lực lượng đồn trú không thể nhận được sự hậu thuẫn vững chãi.

Trên giấy tờ, trận đánh ở Điện Biên Phủ không hẳn là sự kiện quyết định của chiến tranh, bởi vì người Pháp còn sở hữu các lực lượng hùng mạnh và được Mỹ hậu thuẫn. Vậy mà chính quyền và nhân dân Pháp lại không thể chịu đựng thêm được nữa. Pierre Rocolle đã viết: ‘Điện Biên Phủ trở thành lời mời mọc cấp thiết để kết thúc cuộc bắn giết, bởi vì ý chí theo đuổi cuộc chiến đấu không còn tồn tại.’

Trước khi các phiên họp chính thức mở ra ở Geneva, ngày 3/5 - chính quyền Bảo Đại đe dọa tẩy chay hội nghị nếu người Pháp không đảm bảo việc chia cắt không có trên nghị trình. Các cuộc đối thoại song phương được nhộn nhịp tiến hành trước khi họp chính thức bắt đầu vào ngày 8/5.

Trong tuần lễ đầu, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lặng - hai ngoại trưởng duy nhất tỏ ra mất kiên nhẫn là Eden và Molotov. Vào ngày 10/5, Ông Phạm Văn Đồng đọc bài phát biểu tuyên bố Việt Minh chủ trương một nền độc lập đầy đủ cho ba nước Đông Dương. Ông hứa những người Việt nào từng chống lại Họ sẽ ‘không bị áp bức’. Rồi, trước sự kinh ngạc của phương Tây, ông bày tỏ ý muốn xem xét việc chia cắt. Gần như chắc chắn Việt Minh đã bị gây áp lực mới đưa ra một đề nghị như thế. Ngày 12/5, phái đoàn Bảo Đại tái xác nhận bác bỏ bất kì sự chia cắt nào. Nhưng các cuộc đối thoại song phương về cách thức và phương tiện bắt đầu giữa các đại biểu Pháp và Việt Minh, do Anh động viên.

Để hiểu rõ các sự kiện vài tuần sau đó, cần nhận thức rằng việc đầu hàng tại Điện Biên Phủ không ngăn được hai bên tiếp tục đánh nhau ở nơi khác trên khắp Việt Nam. Ngày 4/6 Navarre bị cách chức, nhường chỗ cho Paul Ely trở thành toàn quyền Đông Dương. Hai thảm họa quân sự mới xảy ra. Nhóm Cơ động 100, trong khi tiến hành một cuộc rút quân khỏi An Khê ở Cao nguyên Trung phần, rơi vào hàng loạt bẫy phục kích bắt đầu vào ngày 24/6. Khoảng nửa quân số Nhóm Cơ động 100 bị tiêu diệt và 4 phần 5 xe cơ giới bị phá hủy, một trong các trung đoàn thiện chiến nhất, ‘Triều Tiên’ 1 bị xoá sổ. Vào ngày 12/7 Nhóm Cơ động 42 chịu chung số phận. Nhiều nguồn tin cho biết Tướng Giáp đang chuẩn bị một trận công kích lớn vào đồng bằng sông Hồng. Tuyến đường sắt Trung Quốc nối với biên giới phía bắc của ‘vùng giải phóng’ hiện giờ cung cấp cho Việt Minh đến 4,000 tấn quân nhu và trang thiết bị mỗi tháng.

Trong khi đó tại Geneva, sau ngày 15/6 hội nghị phát triển một cách kịch tính - Joseph Laniel rời chức thủ tướng, và được Pierre Mendès-France thay thế. Vị thủ tướng mới lập tức tuyên bố rằng ông cũng sẽ từ chức nếu trong 30 ngày ông không đạt được lệnh ngừng bắn ở Đông Dương. Như vậy là ông đã đặt ra kỳ hạn chót cho hòa đàm Geneva. Các đại biểu của chính quyền Bảo Đại do thủ tướng mới được chọn một cách bất thường là Ngô Đình Diệm vẫn tỏ thái độ thù địch.

Vào ngày 10/7, mọi việc chia cắt được thỏa thuận giữa người Pháp và Việt Minh khép lại tại Vĩ tuyến 17. Sự chia cắt này ‘sẽ có tính lâm thời và theo bất cứ cách nào không nên được giải thích là hình thành một đường biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Mọi công dân Việt Nam được nhận một thời kỳ chiếu cố 300 ngày để quyết định sẽ sống dưới chế độ nào, với quyền tự do được bảo đảm đi ra bắc hay vô nam. Trong vòng hai năm sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử. Cả hai miền Việt Nam sẽ tham gia cùng với Lào và Cambodia như các nhà nước được thừa nhận là trung lập. Người Pháp sẽ khăn gói về nước. Có hai văn kiện chính hình thành Hiệp định Geneva. Thỏa thuận Đình Chiến được ký vào ngày 21/7/1954 bởi Pháp và Miền Bắc. Thông cáo Cuối cùng của Hội nghị Geneva được hậu thuẫn miệng bởi Pháp, Anh, Trung Quốc,  và Nga.


Hiệp định Geneva chỉ giải quyết những điều khoản hưu chiến, giữa thực dân Pháp ra đi và Việt minh nắm quyền ở Miền Bắc. Trong đó chứa cơ sở cho cả Washington lẫn Sài Gòn sau này nhấn mạnh rằng việc từ chối tiến hành bầu cử quốc gia trong khuôn khổ hai năm là không vi phạm điều gì mà hai bên đã thỏa thuận.

 ...


Theo Max Hastings

Trần Quang Nghĩa dịch


*Photo:  9 giờ sáng 14.3.1954, Việt Minh làm chủ toàn bộ cụm cứ điểm Him Lam (Béatrice), sau trận chiến đẫm máu kéo dài từ chiều hôm trước

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Quân tử dùng dằng ..

Quân tử dùng dằng ... đi chẳng dứt
Đi thì quá dở ... ở được không ?
...



Photo: Hoang Anh

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

Cây cầu tình yêu

CÂY CẦU TÌNH YÊU
Cây cầu Tình Yêu
Bắc qua sông Thù Hận
Mong manh và dễ gãy

Karl Lubomirski
Quang Chiến dịch