- Phố tám mươi mốt, để cho khách xuống – người chăn cừu mặc đồ xanh réo to lên.
Một đàn công dân – cừu chen nhau xuống và một đàn khác chen nhau lên. Keng! Keng! Đoàn xe chở gia súc của Sở xe điện trên cao ở Manhattan rầm rầm chuyển bánh, còn John Perkins thì giạt theo đàn người xuống cầu thang nhà ga.
Anh thong thả đi về nhà. Thong thả vì trong từ điển đời sống hàng ngày của anh không có từ nào giống như từ “có lẽ”. Đối với một người đàn ông lấy vợ đã được hai năm và sống trong một căn phòng nhỏ thì chẳng có chuyện gì bất ngờ chờ đợi anh ta. Vừa đi, John Perkins vừa tự tiên đoán với mình một cách chua chat, chán ngán và ấm ức những cái kết thúc đã biết trước của một ngày tẻ nhạt.
Katy sẽ đợi anh ở cửa với một cái hôn sực mùi kem thoa mặt và kẹo bơ. Anh sẽ cởi áo ra, ngồi vào cái đi văng lổn nhổn như trải đá răm và đọc trên tờ báo buổi chiều chuyện người Nga và người Nhật bị cái máy in giết người tàn sát. Bữa ăn tối có món thịt áp chảo, món rau trộn với một thứ nước xốt đảm bảo không làm rạn hay làm hỏng da bọc bàn ghế, rau đại hoàng ninh nhừ và chai mứt dâu thẹn đỏ mặt vì tấm chứng chỉ in trên nhãn hiệu xác nhận sự tinh khiết hóa học của nó. Sau bữa ăn, Katy sẽ chỉ cho anh xem miếng vá mới trên tấm mền chắp bằng những mảnh vải không đều nhau mà người bán nước đá đã cắt cho chị ở đuôi chiếc cà vạt của bác ta. Đến bảy giờ rưỡi, hai vợ chồng sẽ đi trải giấy báo lên đồ đạc để hứng những mảnh vữa rơi khi cái nhà ông to béo ở căn buồng tầng trên bắt đầu tập thể dục. Đúng tám giờ, Hickey và Mooney, trong đoàn hí kịch (chưa đăng ký) ở căn phòng bên kia hành lang sẽ lên cơn mê sảng điên loạn, bắt đầu lật đổ bàn ghế, tưởng tượng rằng Hammerstein đang đuổi theo họ với bản hợp đồng năm trăm đô la một tuần. Rồi anh chàng ở cửa sổ bên kia đường phố hẹp như một cái ống thông hơi sẽ lấy chiếc sáo ra; hơi đốt cứ đến đêm lại rò rỉ sẽ lọt qua lỗ hở nhảy nhót ngoài đường; cái giá tự động đưa đồ lên các tầng gác sẽ trật bánh; một lần nữa, người gác cổng lại sẽ đưa năm đứa con của bà Zanowitski qua sông Yalu; người thiếu phụ có đôi giày màu sâm banh và con chó săn giống Skye sẽ nhẹ nhàng đi xuống dưới nhà, dán cái tên của cô ta dùng vào những ngày thứ năm lên chỗ bấm chuông và hòm thư – và thế là cuộc sống thường lệ buổi tối của khu nhà Frogmore bắt đầu.
John Perkins biết những chuyện đó sẽ xảy ra. Và anh cũng biết rằng đến tám giờ mười lăm, anh sẽ lấy hết can đảm với lấy cái mũ, vợ anh sẽ càu nhàu nói câu này:
- Thế nào, John Perkins, em muốn biết anh định đi đâu đấy?
- Ấy, anh lại đằng tiệm McCloskey, - anh sẽ trả lời, - chơi vài ván bi-a với lũ bạn.
Đấy là thói quen của John Perkins hồi gần đây. Đến mười giờ hay mười một giờ, anh về nhà. Có khi Katy ngủ rồi, có khi chị còn thức chờ anh, sẵn sàng lấy cái mồi lửa giận của chị đun chảy mòn thêm một chút lớp mạ vàng ở sợi xích thép của tình vợ chồng. Thần ái tình sẽ phải chịu trách nhiệm về những chuyện này khi phải ra đứng trước vành móng ngựa với những nạn nhân của mình ở Frogmore.
Tối nay, John Perkins gặp một sự đảo lộn ghê gớm khác thường khi về tới cửa nhà anh. Chẳng thấy Katy đâu với cái hôn trìu mến, thơm mùi kẹo. Ba căn buồng như rơi vào một cảnh hỗn loạn bất thường. Đồ vật của chị bừa bãi ngổn ngang khắp nơi. Giày ở giữa sàn, cặp uốn tóc, trâm cài đầu, áo ngủ, hộp phấn để lộn xộn lung tung trên bàn trang sức, trên ghế - Katy đâu có cái thói như thế. John trông thấy mớ tóc quăn màu nâu của vợ vương giữa hàng răng lược mà tim thót lại. Hẳn đã có một chuyện gì khác thường làm Katy phải vội vã và bối rối đến như thế vì xưa nay bao giờ chị cũng cẩn thận cất những món tóc rối ấy trong cái bình nhỏ màu xanh trên mặt lò sưởi, để một ngày kia làm thành “bím tóc độn” mà phụ nữ thường mơ ước.
Một tờ giấy gấp treo lủng lẳng bằng một sợi dây ở vòi hơi đốt trông rất dễ thấy. John giật ngay lấy. Đó là bức thư của vợ anh, viết như sau:
“Anh John,
Em vừa nhận được điện báo tin mẹ ốm nặng. Em đi ngay chuyến tàu 4 giờ 30 đây. Anh Sam sẽ đón em ở ga. Có thịt cừu nguội trong tủ lạnh đấy. Em hy vọng không phải cái bệnh viêm họng cũ của mẹ. Anh trả cho bác hàng sữa sáu hào. Mùa xuân vừa rồi, mẹ bị viêm họng nặng lắm. Anh nhớ viết cho công ty về cái “công tơ” hơi đốt nhé, bí tất lành của anh để ở ngăn kéo trên cùng ấy. Mai em sẽ viết thư cho anh.
Vội lắm,
Katy”
Suốt hai năm trời lấy nhau, anh và Katy chưa bao giờ xa nhau một đêm. John chết lặng đọc đi đọc lại bức thư. Đây là một sự đổ vỡ trong nếp sống đều đều hàng ngày chưa bao giờ thay đổi và điều đó làm anh choáng váng.
Kìa, vắt trên lưng ghế, rỗng tuếch và không ra hình thù gì cả trông thật mủi lòng, là chiếc áo choàng màu đỏ chấm đen chị vẫn thường mặc khi chuẩn bị bữa ăn. Trong lúc vội vã, áo sống chị mặc hàng ngày bị ném đây một chiếc, kia một chiếc. Một cái túi giấy nhỏ đựng thứ kẹo chị ưa thích nằm lăn lóc, dây buộc chưa cởi. Một tờ báo hàng ngày nằm sóng sượt trên sàn, mồm há hốc thành hình chữ nhật ở chỗ đăng giờ tàu chạy đã bị cắt thủng. Mọi vật trong phòng đều nói lên một sự mất mát, linh hồn và sự sống của nó đã ra đi mất rồi. John Perkins đứng giữa những con vật còn lại mà cảm thấy lòng tan hoang một cách kỳ lạ.
Anh cố gắng thu dọn các buồng lại cho gọn. Khi đụng đến áo sống của vợ thì một cái gì như một nỗi kinh hoàng làm anh rùng mình. Anh chưa hề bao giờ nghĩ cuộc sống sẽ thế nào nếu không có Katy. Chị đã hoàn toàn hòa nhập vào đời anh, đã trở thành như không khí anh thở - cần thiết đấy mà lại hầu như không để ý thấy. Thế mà giờ đây, không báo trước gì cả, Katy đi mất, biến mất, hoàn toàn xa vắng như thể chưa bao giờ tồn tại. Tất nhiên là chỉ vài ngày sau thôi, cùng lắm là một hay hai tuần, nhưng anh thấy hình như chính bàn tay của thần chết đã trỏ ngón tay vào cái gia đình vốn yên lành vô sự của anh.
John lôi món thịt cừu nguội trong tủ lạnh ra, pha cà phê và ngồi vào bàn ăn một mình, diện đối diện với cái chứng chỉ vô liêm sỉ xác nhận sự tinh khiết của lọ mứt dâu. Lúc này trước mắt anh hiện ra bóng dáng của món thịt áp chảo, món rau trộn nước xốt bóng láng màu nâu rực rỡ sáng ngời giữa những niềm hạnh phúc đã mất. Gia đình anh thế là tan nát. Một bà mẹ vợ viêm họng đã phá tung tóe tan hoang nhà cửa của anh. Sau bữa cơm cô quạnh ấy John ra ngồi ở cửa sổ phía nhìn ra đường phố.
Anh chẳng buồn hút thuốc nữa. Ngoài kia, thành phố đang hò reo gọi anh tham gia cuộc nhảy múa điên cuồng vui nhộn của nó. Đêm tối là của anh. Anh có thể ra đi mà không bị ăn căn vặn; và bật gãy những sợi dây đàn của vui chơi, tự do như bất cứ một anh chàng chưa vợ nào. Anh có thể nhậu nhẹt, lang thang, ăn chơi lu bù cho đến sáng nếu anh muốn và sẽ chẳng có một Katy giận dữ nào chờ đợi anh, tay ôm cái cốc đựng cặn niềm vui của anh. Nếu anh muốn, anh có thể chơi bi-a ở tiệm của McCloskey với đám bạn bè ồn ào của anh cho tới khi bình minh làm lu mờ các bóng đèn điện. Những sợi dây tơ hồng vẫn trói buộc anh những khi khu nhà Frogmore làm anh chán ngấy, bây giờ đã lơi lỏng rồi. Katy đã đi khỏi.
John Perkins không quen phân tích cảm xúc của mình. Nhưng ngồi trong căn buồng kích thước một bề 3 mét một bề 4 mét, thiếu Katy của anh, tất nhiên anh không thể không thấy cái nguyên nhân chính đã làm anh phiền muộn. Bây giờ thì anh biết rằng Katy là cần thiết cho hạnh phúc của anh. Tình cảm của anh đối với Katy, bị cái vòng quay tẻ ngắt của đời sống gia đình ru ngủ đến mức không còn có ý thức gì về nó nữa, tình cảm đó đã bị khuấy mạnh lên vì sự vắng mặt của Katy. Chúng ta đã chẳng rác cả tai vì những câu phương ngôn, thuyết giáo và ngụ ngôn nói rằng người ta chẳng bao giờ biết được giá trị của âm nhạc trước khi con chim hót hay bay đi mất – hoặc những câu nói khác không kém văn hoa, đúng đắn – đó sao?
“Mình đối xử với Katy như thế thật là ngu”, John Perkins trầm ngâm. “Ai lại đêm nào cũng tếch đi chơi bi-a và bù khú với bạn bè, chẳng bao giờ ở nhà với cô ta. Tội nghiệp cô ta cứ vò võ một mình ở đây, chẳng có gì giải trí, mà mình thì lại cư xử như thế! John Perkins, mày là một thằng tồi nhất hạng. Mình phải đền bù lại cho cô ta mới được. Mình sẽ đưa cô ta đi chơi, cho cô ta xem cái gì để giải trí. Và mình sẽ cắt đứt với bọn ở tiệm McCloskey ngay từ giờ phút này”.
Phải, thành phố đang reo hò ngoài kia gọi John Perkins ra đi theo Momus nhảy múa. Và ở đằng tiệm McCloskey, lũ bạn anh đang uể oải đẩy các hòn bi-a vào lỗ, chờ đợi giờ bắt đầu trận đấu đêm. Nhưng chẳng còn có con đường trải hoa anh thảo nào mà cũng chẳng có cái gậy bi-a lách cách nào có thể cám dỗ được tâm hồn hối hận của Perkins, con người côi cút. Cái của riêng anh, mà anh đã hờ hững, hầu như khinh khi, đã bị đem đi xa anh, và anh cần đến nó. Lần trở về quá khứ, John Perkins – con người ăn năn hối hận đó – có thể tìm ra dòng dõi mình là dòng dõi một người đàn ông tên là Adam mà thiên sứ đã tống ra khỏi vườn quả Thiên đàng.
Gần bên tay phải của John Perkins có một cái ghế. Trên lưng ghế có vắt chiếc áo sơ mi màu xanh của Katy. Nó hãy còn giữ lại một chút hình dáng của chị. Khoảng cách giữa ống tay có những nếp nhăn nhỏ, đặc biệt, do cánh tay của chị cử động đã tạo ra trong khi làm lụng cho sự êm ấm và vui thú của anh. Từ chiếc áo toát ra một mùi hoa dạ hương lan nhẹ nhàng như da diết. John Perkins cầm lấy áo, điềm tĩnh nhưng dè dặt, nhìn hồi lâu chiếc áo lụa vô tình. Katy chẳng bao giờ lại vô tình như thế. Những giọt nước mắt, vâng, những giọt nước mắt rưng rưng trong khóe mắt John Perkins. Khi nào Katy trở về, mọi sự sẽ khác. Anh sẽ đền bù tất cả những sự lơ là của anh, đời sống không có Katy thì còn ra cái gì nữa?
Cửa mở, Katy bước vào, tay xách một chiếc túi nhỏ. John ngẩn người, trân trân nhìn vợ.
- Chao! Em rất mừng đã trở về nhà – Katy nói. – Mẹ ốm sơ sơ thôi. Anh Sam đã ra ga, cho em biết là mẹ chỉ đau một chút và đã khỏi ngay sau khi đánh điện cho em. Thế là em đi chuyến tàu sau về luôn. Em đang thèm một tách cà phê đến chết đi được.
Không ai nghe thấy tiếng lách cách, lọc xọc của các bánh xe răng cưa chuyển động khi căn phòng mặt trước ở tầng bốn của khu nhà Frogmore chạy máy ù ù quay trở về Trật tự của Sự vật. Một băng dây chuyền tuột, một lò xo bị hỏng, nhưng rồi cỗ máy đã được điều chỉnh và các bánh xe lại quay trong ổ cũ.
John Perkins nhìn đồng hồ. Tám giờ mười lăm. Anh vớ lấy cái mũ và đi ra cửa.
- Thế nào, anh John Perkins, em muốn biết anh định đi đâu đấy! – Katy càu nhàu hỏi.
- Có lẽ anh đến thẳng tiệm McCloskey, - John nói – chơi vài ván bi-a với lũ bạn.
Ơ.Henry
Một đàn công dân – cừu chen nhau xuống và một đàn khác chen nhau lên. Keng! Keng! Đoàn xe chở gia súc của Sở xe điện trên cao ở Manhattan rầm rầm chuyển bánh, còn John Perkins thì giạt theo đàn người xuống cầu thang nhà ga.
Anh thong thả đi về nhà. Thong thả vì trong từ điển đời sống hàng ngày của anh không có từ nào giống như từ “có lẽ”. Đối với một người đàn ông lấy vợ đã được hai năm và sống trong một căn phòng nhỏ thì chẳng có chuyện gì bất ngờ chờ đợi anh ta. Vừa đi, John Perkins vừa tự tiên đoán với mình một cách chua chat, chán ngán và ấm ức những cái kết thúc đã biết trước của một ngày tẻ nhạt.
Katy sẽ đợi anh ở cửa với một cái hôn sực mùi kem thoa mặt và kẹo bơ. Anh sẽ cởi áo ra, ngồi vào cái đi văng lổn nhổn như trải đá răm và đọc trên tờ báo buổi chiều chuyện người Nga và người Nhật bị cái máy in giết người tàn sát. Bữa ăn tối có món thịt áp chảo, món rau trộn với một thứ nước xốt đảm bảo không làm rạn hay làm hỏng da bọc bàn ghế, rau đại hoàng ninh nhừ và chai mứt dâu thẹn đỏ mặt vì tấm chứng chỉ in trên nhãn hiệu xác nhận sự tinh khiết hóa học của nó. Sau bữa ăn, Katy sẽ chỉ cho anh xem miếng vá mới trên tấm mền chắp bằng những mảnh vải không đều nhau mà người bán nước đá đã cắt cho chị ở đuôi chiếc cà vạt của bác ta. Đến bảy giờ rưỡi, hai vợ chồng sẽ đi trải giấy báo lên đồ đạc để hứng những mảnh vữa rơi khi cái nhà ông to béo ở căn buồng tầng trên bắt đầu tập thể dục. Đúng tám giờ, Hickey và Mooney, trong đoàn hí kịch (chưa đăng ký) ở căn phòng bên kia hành lang sẽ lên cơn mê sảng điên loạn, bắt đầu lật đổ bàn ghế, tưởng tượng rằng Hammerstein đang đuổi theo họ với bản hợp đồng năm trăm đô la một tuần. Rồi anh chàng ở cửa sổ bên kia đường phố hẹp như một cái ống thông hơi sẽ lấy chiếc sáo ra; hơi đốt cứ đến đêm lại rò rỉ sẽ lọt qua lỗ hở nhảy nhót ngoài đường; cái giá tự động đưa đồ lên các tầng gác sẽ trật bánh; một lần nữa, người gác cổng lại sẽ đưa năm đứa con của bà Zanowitski qua sông Yalu; người thiếu phụ có đôi giày màu sâm banh và con chó săn giống Skye sẽ nhẹ nhàng đi xuống dưới nhà, dán cái tên của cô ta dùng vào những ngày thứ năm lên chỗ bấm chuông và hòm thư – và thế là cuộc sống thường lệ buổi tối của khu nhà Frogmore bắt đầu.
John Perkins biết những chuyện đó sẽ xảy ra. Và anh cũng biết rằng đến tám giờ mười lăm, anh sẽ lấy hết can đảm với lấy cái mũ, vợ anh sẽ càu nhàu nói câu này:
- Thế nào, John Perkins, em muốn biết anh định đi đâu đấy?
- Ấy, anh lại đằng tiệm McCloskey, - anh sẽ trả lời, - chơi vài ván bi-a với lũ bạn.
Đấy là thói quen của John Perkins hồi gần đây. Đến mười giờ hay mười một giờ, anh về nhà. Có khi Katy ngủ rồi, có khi chị còn thức chờ anh, sẵn sàng lấy cái mồi lửa giận của chị đun chảy mòn thêm một chút lớp mạ vàng ở sợi xích thép của tình vợ chồng. Thần ái tình sẽ phải chịu trách nhiệm về những chuyện này khi phải ra đứng trước vành móng ngựa với những nạn nhân của mình ở Frogmore.
Tối nay, John Perkins gặp một sự đảo lộn ghê gớm khác thường khi về tới cửa nhà anh. Chẳng thấy Katy đâu với cái hôn trìu mến, thơm mùi kẹo. Ba căn buồng như rơi vào một cảnh hỗn loạn bất thường. Đồ vật của chị bừa bãi ngổn ngang khắp nơi. Giày ở giữa sàn, cặp uốn tóc, trâm cài đầu, áo ngủ, hộp phấn để lộn xộn lung tung trên bàn trang sức, trên ghế - Katy đâu có cái thói như thế. John trông thấy mớ tóc quăn màu nâu của vợ vương giữa hàng răng lược mà tim thót lại. Hẳn đã có một chuyện gì khác thường làm Katy phải vội vã và bối rối đến như thế vì xưa nay bao giờ chị cũng cẩn thận cất những món tóc rối ấy trong cái bình nhỏ màu xanh trên mặt lò sưởi, để một ngày kia làm thành “bím tóc độn” mà phụ nữ thường mơ ước.
Một tờ giấy gấp treo lủng lẳng bằng một sợi dây ở vòi hơi đốt trông rất dễ thấy. John giật ngay lấy. Đó là bức thư của vợ anh, viết như sau:
“Anh John,
Em vừa nhận được điện báo tin mẹ ốm nặng. Em đi ngay chuyến tàu 4 giờ 30 đây. Anh Sam sẽ đón em ở ga. Có thịt cừu nguội trong tủ lạnh đấy. Em hy vọng không phải cái bệnh viêm họng cũ của mẹ. Anh trả cho bác hàng sữa sáu hào. Mùa xuân vừa rồi, mẹ bị viêm họng nặng lắm. Anh nhớ viết cho công ty về cái “công tơ” hơi đốt nhé, bí tất lành của anh để ở ngăn kéo trên cùng ấy. Mai em sẽ viết thư cho anh.
Vội lắm,
Katy”
Suốt hai năm trời lấy nhau, anh và Katy chưa bao giờ xa nhau một đêm. John chết lặng đọc đi đọc lại bức thư. Đây là một sự đổ vỡ trong nếp sống đều đều hàng ngày chưa bao giờ thay đổi và điều đó làm anh choáng váng.
Kìa, vắt trên lưng ghế, rỗng tuếch và không ra hình thù gì cả trông thật mủi lòng, là chiếc áo choàng màu đỏ chấm đen chị vẫn thường mặc khi chuẩn bị bữa ăn. Trong lúc vội vã, áo sống chị mặc hàng ngày bị ném đây một chiếc, kia một chiếc. Một cái túi giấy nhỏ đựng thứ kẹo chị ưa thích nằm lăn lóc, dây buộc chưa cởi. Một tờ báo hàng ngày nằm sóng sượt trên sàn, mồm há hốc thành hình chữ nhật ở chỗ đăng giờ tàu chạy đã bị cắt thủng. Mọi vật trong phòng đều nói lên một sự mất mát, linh hồn và sự sống của nó đã ra đi mất rồi. John Perkins đứng giữa những con vật còn lại mà cảm thấy lòng tan hoang một cách kỳ lạ.
Anh cố gắng thu dọn các buồng lại cho gọn. Khi đụng đến áo sống của vợ thì một cái gì như một nỗi kinh hoàng làm anh rùng mình. Anh chưa hề bao giờ nghĩ cuộc sống sẽ thế nào nếu không có Katy. Chị đã hoàn toàn hòa nhập vào đời anh, đã trở thành như không khí anh thở - cần thiết đấy mà lại hầu như không để ý thấy. Thế mà giờ đây, không báo trước gì cả, Katy đi mất, biến mất, hoàn toàn xa vắng như thể chưa bao giờ tồn tại. Tất nhiên là chỉ vài ngày sau thôi, cùng lắm là một hay hai tuần, nhưng anh thấy hình như chính bàn tay của thần chết đã trỏ ngón tay vào cái gia đình vốn yên lành vô sự của anh.
John lôi món thịt cừu nguội trong tủ lạnh ra, pha cà phê và ngồi vào bàn ăn một mình, diện đối diện với cái chứng chỉ vô liêm sỉ xác nhận sự tinh khiết của lọ mứt dâu. Lúc này trước mắt anh hiện ra bóng dáng của món thịt áp chảo, món rau trộn nước xốt bóng láng màu nâu rực rỡ sáng ngời giữa những niềm hạnh phúc đã mất. Gia đình anh thế là tan nát. Một bà mẹ vợ viêm họng đã phá tung tóe tan hoang nhà cửa của anh. Sau bữa cơm cô quạnh ấy John ra ngồi ở cửa sổ phía nhìn ra đường phố.
Anh chẳng buồn hút thuốc nữa. Ngoài kia, thành phố đang hò reo gọi anh tham gia cuộc nhảy múa điên cuồng vui nhộn của nó. Đêm tối là của anh. Anh có thể ra đi mà không bị ăn căn vặn; và bật gãy những sợi dây đàn của vui chơi, tự do như bất cứ một anh chàng chưa vợ nào. Anh có thể nhậu nhẹt, lang thang, ăn chơi lu bù cho đến sáng nếu anh muốn và sẽ chẳng có một Katy giận dữ nào chờ đợi anh, tay ôm cái cốc đựng cặn niềm vui của anh. Nếu anh muốn, anh có thể chơi bi-a ở tiệm của McCloskey với đám bạn bè ồn ào của anh cho tới khi bình minh làm lu mờ các bóng đèn điện. Những sợi dây tơ hồng vẫn trói buộc anh những khi khu nhà Frogmore làm anh chán ngấy, bây giờ đã lơi lỏng rồi. Katy đã đi khỏi.
John Perkins không quen phân tích cảm xúc của mình. Nhưng ngồi trong căn buồng kích thước một bề 3 mét một bề 4 mét, thiếu Katy của anh, tất nhiên anh không thể không thấy cái nguyên nhân chính đã làm anh phiền muộn. Bây giờ thì anh biết rằng Katy là cần thiết cho hạnh phúc của anh. Tình cảm của anh đối với Katy, bị cái vòng quay tẻ ngắt của đời sống gia đình ru ngủ đến mức không còn có ý thức gì về nó nữa, tình cảm đó đã bị khuấy mạnh lên vì sự vắng mặt của Katy. Chúng ta đã chẳng rác cả tai vì những câu phương ngôn, thuyết giáo và ngụ ngôn nói rằng người ta chẳng bao giờ biết được giá trị của âm nhạc trước khi con chim hót hay bay đi mất – hoặc những câu nói khác không kém văn hoa, đúng đắn – đó sao?
“Mình đối xử với Katy như thế thật là ngu”, John Perkins trầm ngâm. “Ai lại đêm nào cũng tếch đi chơi bi-a và bù khú với bạn bè, chẳng bao giờ ở nhà với cô ta. Tội nghiệp cô ta cứ vò võ một mình ở đây, chẳng có gì giải trí, mà mình thì lại cư xử như thế! John Perkins, mày là một thằng tồi nhất hạng. Mình phải đền bù lại cho cô ta mới được. Mình sẽ đưa cô ta đi chơi, cho cô ta xem cái gì để giải trí. Và mình sẽ cắt đứt với bọn ở tiệm McCloskey ngay từ giờ phút này”.
Phải, thành phố đang reo hò ngoài kia gọi John Perkins ra đi theo Momus nhảy múa. Và ở đằng tiệm McCloskey, lũ bạn anh đang uể oải đẩy các hòn bi-a vào lỗ, chờ đợi giờ bắt đầu trận đấu đêm. Nhưng chẳng còn có con đường trải hoa anh thảo nào mà cũng chẳng có cái gậy bi-a lách cách nào có thể cám dỗ được tâm hồn hối hận của Perkins, con người côi cút. Cái của riêng anh, mà anh đã hờ hững, hầu như khinh khi, đã bị đem đi xa anh, và anh cần đến nó. Lần trở về quá khứ, John Perkins – con người ăn năn hối hận đó – có thể tìm ra dòng dõi mình là dòng dõi một người đàn ông tên là Adam mà thiên sứ đã tống ra khỏi vườn quả Thiên đàng.
Gần bên tay phải của John Perkins có một cái ghế. Trên lưng ghế có vắt chiếc áo sơ mi màu xanh của Katy. Nó hãy còn giữ lại một chút hình dáng của chị. Khoảng cách giữa ống tay có những nếp nhăn nhỏ, đặc biệt, do cánh tay của chị cử động đã tạo ra trong khi làm lụng cho sự êm ấm và vui thú của anh. Từ chiếc áo toát ra một mùi hoa dạ hương lan nhẹ nhàng như da diết. John Perkins cầm lấy áo, điềm tĩnh nhưng dè dặt, nhìn hồi lâu chiếc áo lụa vô tình. Katy chẳng bao giờ lại vô tình như thế. Những giọt nước mắt, vâng, những giọt nước mắt rưng rưng trong khóe mắt John Perkins. Khi nào Katy trở về, mọi sự sẽ khác. Anh sẽ đền bù tất cả những sự lơ là của anh, đời sống không có Katy thì còn ra cái gì nữa?
Cửa mở, Katy bước vào, tay xách một chiếc túi nhỏ. John ngẩn người, trân trân nhìn vợ.
- Chao! Em rất mừng đã trở về nhà – Katy nói. – Mẹ ốm sơ sơ thôi. Anh Sam đã ra ga, cho em biết là mẹ chỉ đau một chút và đã khỏi ngay sau khi đánh điện cho em. Thế là em đi chuyến tàu sau về luôn. Em đang thèm một tách cà phê đến chết đi được.
Không ai nghe thấy tiếng lách cách, lọc xọc của các bánh xe răng cưa chuyển động khi căn phòng mặt trước ở tầng bốn của khu nhà Frogmore chạy máy ù ù quay trở về Trật tự của Sự vật. Một băng dây chuyền tuột, một lò xo bị hỏng, nhưng rồi cỗ máy đã được điều chỉnh và các bánh xe lại quay trong ổ cũ.
John Perkins nhìn đồng hồ. Tám giờ mười lăm. Anh vớ lấy cái mũ và đi ra cửa.
- Thế nào, anh John Perkins, em muốn biết anh định đi đâu đấy! – Katy càu nhàu hỏi.
- Có lẽ anh đến thẳng tiệm McCloskey, - John nói – chơi vài ván bi-a với lũ bạn.
Ơ.Henry
Ngô Vĩnh Viễn dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét