Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Anh có hay ...

 

 Anh có hay mùa Thu mây bay gió nhẹ

 Anh có hay Thu về hết dấu cô liêu
  ...

  Ngô Thụy Miên

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

Thoáng mùi sen nở muộn

 Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm
 Thoáng mùi sen nở muộn
  ...

  Phan Vũ



Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2024

Nghe những tàn phai

  
  Ngày đi đêm tới

  Nghe những tàn phai


  Trịnh Công Sơn

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2024

Thiền Sư




THIỀN SƯ

Thiền sư không phải là người bay lên trời, cũng không phải là người biết quá khứ vị lai mà là người làm chủ được mình, biết rõ đường đi nước bước của mình. 

Biết rõ như vậy nên các Ngài không tạo Nhân bất hảo để chuốc Quả bất hảo. Các Ngài tự tại đi trong cuộc đời mà không vướng mắc cuộc đời.


Thầy Thích Thanh Từ

Kính Mừng Khánh Tuế Hoà Thượng Tôn Sư Trúc Lâm !

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

Khoảng Trống Quyền Lực

 " Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế "
- Ngô Thì Nhậm -
 

 
 


KHOẢNG TRỐNG QUYỀN LỰC

Hơn 70 năm sau Cách Mạng Tháng Tám, bản chất của một trong những biến cố chính trị quan trọng nhất lịch sử đương đại Việt Nam vẫn tiếp tục còn trong vòng tranh cãi giữa giới sử gia, học giả cũng như những nhà quan sát. Một trong số đó là quan điểm về cái gọi là " khoảng trống quyền lực " xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp (9-3-1945) cho tới trước khi Việt Minh giành được chính quyền vào nửa sau tháng 8 năm 1945. Sử gia nổi tiếng người Na Uy S.Tonnesson đưa ra khái niệm “ khoảng trống quyền lực ”, xuất hiện từ lúc Nhật thế chân Pháp tại Đông Dương nhưng lại bại trận phải đầu hàng Đồng minh. Ông nhận định trong cuốn sách được đánh giá rất cao ở phương Tây " The Vietnamese Revolution of 1945 – Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War ":

“ Bằng việc tạo ra khoảng trống quyền lực, các cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã mời Việt Minh giành chính quyền ”.

Gần tương đồng với quan điểm này của S.Tonesson, ký giả Pháp Phillip Devillers - tác giả cuốn " Histoire du Việt Nam de 1940-1952  " cho rằng : “ cuộc cách mạng không phải là sự bùng nổ… Chỉ có một sự hội tụ kỳ lạ các điều kiện mới khiến cho cách mạng thực hiện được ”. 

Các điều kiện ấy là Nhật đảo chính Pháp, nạn đói năm Ất Dậu, tình trạng (gần như) vô chính phủ ở Việt Nam. Theo Devillers, nếu không có “ sự hội tụ kỳ lạ " những việc này, Việt Minh “ khó có cơ may… để thắng được cấu trúc mạnh mẽ của Pháp…”.

Sử gia người Mỹ William Duiker lại trình bày các nguyên nhân dẫn đến Cách Mạng Tháng Tám một cách hết sức thực tế trong tác phẩm " Ho Chi Minh: A Life ":

 “Rõ ràng là nạn đói ở miền Bắc và Trung Việt Nam, kéo dài dai dẳng từ mùa đông trước, đã tạo ra một tình thế thuận lợi cho các lực lượng cách mạng …

Đói kém tràn lan đã tạo ra cơ hội ngàn vàng cho Việt Minh. Họ tiếp tục khuyến khích nông dân đang bị đói, ở những khu vực mà họ đã giải phóng, phá các kho thóc công để chia cho dân nghèo ... ".

   

Không thể phủ nhận những thành công của Việt Minh trong việc chuẩn bị, vận động và lan tỏa danh tiếng của mình kể từ thời điểm Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, từ đó dẫn đến vai trò đầu tàu của họ trong Cách Mạng Tháng Tám. Tuy nhiên, để có một cái nhìn tổng quát và trọn vẹn hơn về lịch sử thời kỳ này, cần tiếp cận những sự thật lịch sử từ các góc nhìn khác biệt, góp nhặt từ những nguồn khả tín khác nhau mà báo chí và tài liệu Cách Mạng Việt Nam thường hạn chế nhắc đến trong các tư liệu của họ. Chúng ta hãy thử nhìn lại lịch sử giai đoạn trước và trong những ngày tháng 8 của năm 1945:

 

1. Hoạt động của Việt Minh trước tháng 3 năm 1945 :

Dù tự nhận là lực lượng duy nhất có năng lực lãnh đạo từ năm 1930 cho đến khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, thật ra thành tích đấu tranh của Việt Minh và Đông Dương Cộng Sản Đảng rất kém trong giai đoạn từ những năm 1941 đến tận tháng 3 năm 1945. Hiện tượng này có thể được lý giải bởi nhiều yếu tố từ khách quan cho đến chủ quan.

Về mặt khách quan, hầu hết hệ thống chính trị cơ sở của Đông Dương Cộng Sản Đảng gần như đã bị tận diệt từ hai cuộc đàn áp trước đó: lần thứ nhất là giai đoạn 1925 – 1931, sau khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh thất bại; và tiếp đó là giai đoạn 1934 – 1936, sau khi chính phủ có xu hướng xã hội chủ nghĩa Mặt trận Bình Dân (Popular Front) ở Pháp sụp đổ và các hoạt động đàn áp chính trị ở thuộc địa được cho phép tiếp tục thực hiện.

Về mặt chủ quan, thành viên chính thức của Việt Minh tại thời điểm chiến tranh kết thúc chỉ khoảng trên dưới 5.000 người trên toàn Việt Nam, và hoạt động mạnh mẽ có tổ chức nhất chỉ trong phạm vi vùng rừng núi phía Bắc, gần biên giới Trung Quốc. Điều này khiến cho ảnh hưởng thực tế của Việt Minh lên đời sống chính trị của đa số người dân Việt Nam gần như là kiến và voi nếu so với tương quan của nhiều chính đảng và tổ chức tôn giáo – chính trị có tiếng nói khác như Cao Đài, Hòa Hảo hay Quốc Dân Đảng.

 

2. Hoạt động của Việt Minh sau tháng 3 năm 1945 : 

Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận là kể từ khi Nhật đảo chính Pháp và nhu cầu hỗ trợ hậu cần của quân Nhật được tăng cường khiến nạn đói ở miền Bắc trở nên khốc liệt hơn, Việt Minh với các hoạt động kêu gọi đánh phá kho thóc, phản kháng vũ trang và xây dựng chính quyền tự quản địa phương dần trở thành một cái tên quen thuộc đối với nông thôn miền Bắc Việt Nam. Những khu vực mà nạn đói giết chết nhiều nông dân nhất như Nam Định, Thái Bình cũng là nơi mà sự ủng hộ dành cho Việt Minh lên cao nhất.

Việt Minh cũng nhận được điều kiện chính trị thuận lợi gián tiếp bởi sự thụ động của nhiều đảng phái chính trị ở miền Bắc trong giai đoạn này.

Sau khi quân Nhật triệt hạ quân Pháp tại Việt Nam và muốn Việt Nam trở thành đồng minh sau chiến tranh, Nhật tuyên bố trả độc lập cho Việt Nam, và Việt Nam đã thành lập chính phủ quân chủ lập hiến do ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Thể chế quân chủ lập hiến này tương tự thể chế của Nhật hiện tại. Ngày 11-3, vua Bảo Đại ra “ Tuyên Cáo Việt Nam Độc Lập ”, hủy bỏ Hòa ước Patenôtre 1884 ký với Pháp, khôi phục chủ quyền đất nước. Như vậy vào thời điểm này, chế độ phong kiến quân chủ đã bị xóa bỏ trên đất nước Việt Nam, và sự đô hộ của Pháp cũng không còn.

Ngày 17- 8, chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh chào mừng độc lập, ngày 19/8, hưởng ứng lời kêu gọi mừng độc lập, hàng chục vạn đồng bào nô nức kéo về Hà Nội đứng đầy quảng trường. Lực lượng Việt Minh đã trà trộn vào và phát cờ đỏ sao vàng cho người dân, đồng thời dùng vũ lực cướp diễn đàn, hạ hoàng kỳ và treo cờ đỏ sao vàng lên, kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh. 

Trước tình thế này, Nhật đề nghị giúp đỡ chính quyền vua Bảo Đại vãn hồi trật tự và ổn định tình hình, nhưng vua Bảo Đại đã từ chối, ông đã nói một câu nổi tiếng: " Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta ".

Vì vậy, phải nói rằng vua Bảo Đại và chính phủ của ông đã rất tỉnh táo khi từ chối sự giúp đỡ của quân Nhật để bảo vệ Vương quyền, tránh gây đổ máu cho người Việt và do vậy, đã nhường lợi thế lại cho Việt Minh khi tạo ra một " khoảng trống quyền lực " -  Không còn một lực lượng chính trị hay quân sự nào đủ mạnh lúc đó để có thể ngăn trở Việt Minh giành chính quyền. Quả là " gặp thời một tốt cũng thành công ". 

Sau khi giành được chính quyền, để củng cố tính chính danh của mình, Việt Minh đã mời vua Bảo Đại tham gia làm cố vấn tối cao.

 

3. Vai trò của tình báo Mỹ (OSS) trong sự “thành danh” của Việt Minh : 

Khi nhắc đến Việt Minh, một hội nhóm chính trị hoạt động để che giấu danh nghĩa của Đông Dương Cộng Sản Đảng trước sự thù địch của nhiều chí sĩ và người dân tại Việt Nam, có lẽ ai cũng sẽ nghĩ đến thế lực hậu thuẫn đằng sau của tổ chức này là Liên Xô hùng mạnh. Tuy nhiên, thực tế là sự hỗ trợ của Liên Xô trước Cách Mạng Tháng Tám dành cho Việt Minh cực kỳ hạn chế. Trong thập niên 1930 – 1940, hầu hết những học trò ưu tú và cánh tay đắc lực nhất được Moscow đào tạo bài bản như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu… đều đã bị chính quyền thực dân Pháp xử tử. Dây nối cảm tình chính trị giữa Stalin với nhóm Marxist còn thoi thóp hoạt động tại Việt Nam không được như trước. Không chỉ vậy, vào năm 1943, vì yêu cầu hợp lực với các quốc gia tư bản trong chiến tranh Thế giới thứ Hai, Stalin quyết định giải tán và ngừng tài trợ vô thời hạn cho các tổ chức thuộc Quốc Tế Cộng Sản như một động thái thiện chí ngoại giao, triệt tiêu những phản đối trong nội bộ Cộng Sản thế giới về việc hợp tác với hai quốc gia tư bản mà họ dốc sức phản diện hóa trước đây. Một cái giá quá rẻ đối với Stalin để nhận được sự hỗ trợ tài chính và quân sự thiết yếu từ phía Đồng Minh. Điều này khiến cho việc hợp tác với lực lượng có thiên hướng cộng sản tại Việt Nam không còn là vấn đề với chính quyền của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Ở chiều ngược lại, Việt Minh lại là số ít những tổ chức chính trị “ thực chiến ” tại Việt Nam tỏ ra rất thiện chí và muốn thân Mỹ. Việt Minh không chỉ giúp đỡ quân đội Đồng Minh bằng cách báo tin và gây rối với quân Nhật, họ còn giúp giải cứu và hỗ trợ một số phi công Hoa Kỳ có máy bay bị bắn rơi khi giao chiến với quân Nhật trong khu vực Đông Dương.

Ngày 2-11-1944, Trung úy phi công William Shaw thuộc Phi đội 51, Không đoàn " Phi hổ "(Flying Tiger), căn cứ đặt tại vùng Hoa Nam, Trung Quốc, lái máy bay B-25 bị quân Nhật bắn trúng, phải nhảy dù xuống Bản Ngần, xã Đề Thám, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng và được Việt Minh cứu thoát khỏi sự lùng sục gắt gao của quân Nhật. W.Shaw được đưa về Pác Bó gặp Lãnh Tụ của Việt Minh là ông Hồ Chí Minh. Sau đó đích thân ông Hồ Chí Minh đã trèo đèo lội suối, vượt hàng trăm cây số, đưa W.Shaw về Côn Minh, trao lại cho Trung tướng Claire Chenault, Tư lệnh Không đoàn 14 Mỹ, đồng thời là người đại diện cao nhất của quân Đồng Minh tại khu vực. Trong dịp này, ông Hồ Chí Minh đã đề nghị Trung tướng C. Chenault công nhận Mặt Trận Việt Minh là một lực lượng của phe Đồng minh.

Giữa tháng 4 năm 1945, Cấp phó mới của OSS tại Trung Hoa là Đại úy Archimedes Patti đã kịp gặp Hồ Chí Minh gần Chinghsi để lên kế hoạch thành lập một mạng lưới tình báo dựa vào Việt Minh trước khi Hồ Chủ Tịch bắt đầu chuyến đi bộ khó khăn trở về Pắc Bó.

Đến tháng Bảy năm 1945, một nhóm đặc vụ của Văn phòng Chiến lược vụ Hoa Kỳ (American Office of Strategic Services – OSS), tiền thân của Cục Tình báo Trung ương CIA mang biệt danh "Con Nai" (The Deer Team) nhảy dù xuống Tân Trào để tổ chức huấn luyện, đào tạo và trang bị cho lực lượng quân đội non trẻ của Việt Minh. Biệt đội Con Nai có 7 người, gồm Thiếu tá Allison K.Thomas, trưởng nhóm; phiên dịch Henry Albert Prunier; Trung úy Rene Defoumeaux; bác sỹ quân y Paul Hoaglant; Thượng sỹ Lawrence Vogt; Trung sỹ kiêm nhiếp ảnh gia Aaron Squires và Thượng sỹ điện đài William Zielski. 

Người Mỹ đã thả dù tiếp tế vũ khí, lương thực cho Biệt đội Con Nai và Việt Minh, trong đó có nguyên văn bản " Tuyên Ngôn Độc Lập độc " của nước Mỹ theo yêu cầu của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thông tin còn ghi nhận rằng Hồ Chủ Tịch thời điểm đó đang ốm rất nặng do bệnh kiết lỵ và sốt rét hành hạ; và ông được cứu chữa nhờ viên bác sỹ của Biệt đội Con Nai.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, khi các đơn vị quân đội và lực lượng chính trị của Việt Minh tiến về Hà Nội, hộ tống họ không phải là các đại diện của Liên Xô, mà là các sĩ quan và đặc vụ OSS. 

Ngày 16 tháng 8, Đại đội Việt - Mỹ do Đàm Quang Trung (sau này là Thượng tướng) làm Đại đội trưởng, A.Thomas làm Tham mưu trưởng đã được thành lập, làm lễ xuất phát tiến về giành chính quyền ở Hà Nội.

Điều này khiến cho Việt Minh trở thành lực lượng chính trị Việt Nam duy nhất được một thành viên Đồng Minh trung lập (Hoa Kỳ, mà không phải là Pháp hay Trung Hoa Dân Quốc) hậu thuẫn; nhờ vậy, họ càng trở thành một lực lượng chính trị có sức hút và dễ dàng được chấp nhận.

Sau đó, đặc vụ Archimedes Patti được Hồ Chủ Tịch mời tư vấn và hỗ trợ soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lập. Ông này vô cùng bất ngờ trước việc Hồ Chủ Tịch không hề có ý định nhắc đến xung đột xã hội hay đấu tranh giai cấp – những dấu hiệu cơ bản của một bản tuyên ngôn cộng sản khi đọc cho nghe nội dung bản dự thảo. A.Patti đã giật mình khi nghe câu mở đầu : " Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc ". 

Ngay tối đó, A. Patty đã điện về Mỹ : " Ngày 2-9-1945, Việt Nam sẽ tổ chức lễ Tuyên ngôn độc lập. Câu mở đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc là câu mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ ".

Trong thời điểm chuyển giao trật tự chính trị thế giới mà Hoa Kỳ tiếp quản vị trí thống lĩnh phương Tây của Vương Quốc Anh, sự ủng hộ của OSS càng khiến cho các tiếng nói phản đối Việt Minh trở nên rất ít giá trị và tính chính danh của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà càng được tăng cường.

Theo lệnh của Chính phủ Mỹ, Biệt đội Con Nai đã phải rời khỏi Việt Nam ngay trong tháng 9-1945. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhờ họ chuyển một bức thư cho Tổng thống Hoa Kỳ, đề nghị công nhận nền độc lập của Việt Nam và thiết lập mối bang giao tốt đẹp. Rất tiếc là bức thư Hồ Chí Minh gửi đã không được Tổng thống Hoa Kỳ trả lời.

....


Lịch sử đã diễn ra như vậy. Và Việt Minh là lực lượng đã được lịch sử lựa chọn để giành lấy chính quyền vào những ngày tháng Tám này. Đó là sự thật lịch sử không thể phủ nhận.

 

19.8.2019

Nguồn Tổng Hợp

*Ảnh: Đội Con Nai OSS cùng với Hồ Chủ Tịch và các chỉ huy Việt Minh tại Hà Nội vào tháng 9 năm 1945, ngay trước khi nhóm OSS trở về Trung Hoa. Đứng từ trái qua: Phan Dinh Huy (Hong Viet), René Defourneaux, Hồ Chí Minh, Allison Thomas, Võ Nguyên Giáp, Henry Prunier, Đàm Quang Trung, Nguyen Quy, and Paul Hoagland. Quỳ từ trái qua: Lawrence Vogt, Allan Squires và Thai Bach (Thai Ba Chi).


Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2024

Ngày Tự Tứ

 NGÀY TỰ TỨ

Chữ Tự là mình, chữ Tứ là thỉnh cầu các bậc thầy hướng dẫn Tu trong ba tháng, nếu thấy nghe nghi mình có lỗi xin quý ngài từ bi chỉ dạy. Mỗi người tự xét lại, nếu phạm lỗi đúng như vậy thì thành tâm sám hối. Cho nên tinh thần Tự Tứ hết sức cao đẹp. Người chỉ lỗi không đợi thấy mới chỉ, mà nghe ai nói hoặc nghi ngờ cũng cứ chỉ. Một vị Tăng cũng như một vị Ni, với tâm thành khẩn tha thiết cầu xin chỉ lỗi như thế, có thể làm tiêu tan hai điều xấu chứa chấp từ thuở nào.

Thứ nhất, chúng ta quen thói có lỗi muốn che giấu không cho người khác biết, đó là căn bệnh muôn đời. Trong nhà Phật thường thí dụ, người có lỗi che giấu chẳng khác nào che giấu mụt ghẻ mủ, không chịu mổ. Lâu ngày mụt nhọt làm hư thối thịt, thậm chí có thể đi tới chết. Như vậy che giấu là tai họa nuôi dưỡng mầm bệnh trở thành ung thư không ai cứu được. Cho nên ngày Tự Tứ chúng ta cầu mong người khác chỉ dạy để sửa đổi là dẹp được bệnh che giấu.

Thứ hai là bệnh ngạo mạn. Nghĩa là lúc nào cũng thấy mình hơn người, không bao giờ chịu dở, thấp kém, thua thiệt. Vì thế vừa nghe ai nói xấu, chỉ bày cái dở là nổi giận đùng đùng. Từ đó thiêu đốt, phá hoại hết tất cả công đức trên đường tu hành. Đây là hai căn bệnh trầm trọng. Người ôm ấp tâm ngạo mạn là bản ngã cao, tu tập không bao giờ đạt kết quả, vì không hợp với pháp vô ngã của Phật. Càng tu càng xa rời chánh pháp, càng đi ngược những gì đức Phật đã dạy. Đồng thời làm cho Phật pháp suy đồi, Tăng Ni phải ly tán.

Do đó Tự Tứ là ngày chúng Tăng tự biết thỉnh cầu thầy hoặc huynh đệ đi trước chỉ bảo lỗi lầm của mình để sám hối. Chừa được những điều đó tâm sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Đây cũng chính là ý nghĩa cúi thấp mình, không tự cao tự đại. Cho nên Tự Tứ là ngày quan trọng trong nhà Phật. 

Đức Phật gọi Tự Tứ là ngày chư Phật Hoan Hỷ. Ngài hết sức hài lòng với tinh thần Tự Tứ vì đó là ngày chúng đệ tử biết y theo lời Phật dạy dẹp bỏ phiền não, phá trừ ngạo mạn. Vì thế Ngài chọn lễ Tự Tứ đúng vào ngày Vu Lan, xá tội vong nhân hoặc giải đảo huyền, tức mở sợi dây treo ngược, dạy tôn giả Mục kiền liên làm lễ cúng dường chúng Tăng, cầu nguyện mẹ được thoát khổ. Tại sao Phật không chọn những ngày bình thường mà phải là ngày Tự Tứ? Bởi vì ngày thường ít nhiều chúng ta cũng có phiền não chưa giải trừ được. Nếu ôm ấp gìn giữ những thứ đó thì tâm không thanh tịnh, cầu nguyện cho ai cũng không được kết quả tốt. Đợi ngày Tự Tứ toàn thể Tăng Ni với lòng thành kính yêu cầu chỉ lỗi và tâm thấp mình khiêm hạ, không còn bản ngã để nhận lỗi là gốc của tâm thanh tịnh, được như vậy lời cầu nguyện mới có giá trị.

Tâm thanh tịnh hướng về chỗ nào thì chỗ đó sẽ được lợi lạc. Nhân Tự Tứ thanh tịnh của chúng Tăng kết tụ thành quả lớn lao là lễ Vu Lan. Ngày mà tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử hướng về cầu nguyện cho hết thảy vong linh. Với tinh thần thanh tịnh cầu nguyện thì tất cả vong linh đều được thanh tịnh, cho nên đó là ngày xá tội vong nhân.

Với ý nghĩa thâm trầm và giá trị cao thượng của ngày Tự Tứ, Phật dạy dồn hết công năng của chư Tăng cứu độ vong linh, tất cả cửu huyền thất tổ được siêu thăng cõi Phật. 

Ý nghĩa Tự tứ cao thượng, quý báu nên mới gọi là ngày Phật Hoan Hỷ. Vì thế nếu làm theo kiểu máy móc lấy lệ thì Phật không thể vui được. Điều này rất quan trọng.

Phật dạy chúng ta tu để tiêu diệt phiền não thì tâm thanh tịnh, trí sáng suốt. Trên đường tu nếu mình không tự thấy lỗi phải nhờ huynh đệ chỉ giùm. Đó là điều hết sức thiết yếu. Thật ra nhiều khi mình có lỗi còn không muốn nhớ. Ai nói trái ý nổi giận la một hồi rồi giả bộ quên, thấy mình dường như rất tốt và thanh tịnh chứ không dám nhớ hồi nãy sân giận. Đối với người khác, cái dở của họ mình lại nhớ hoài.

Người thật tu là luôn luôn thấy lỗi của mình để chừa bỏ và sửa đổi. Nếu không tự thấy phải nhờ thầy bạn chỉ cho. Được thầy bạn chỉ mà buồn giận là chưa thật tu, chỉ cầm chừng cho có hình thức, tu lấy lệ để được Phật tử ủng hộ thôi. Người thật tu khi được thầy bạn chỉ lỗi phải hoan hỷ nhận, sám hối, chừa bỏ thì mới tiến.

Huynh đệ nào can đảm chỉ tật xấu của người khác là người tốt. Những người được chỉ lỗi mà nổi giận, hờn ghét, kiếm chuyện cự lại, hoặc không dám cự lại vì sợ tội nên ôm ấp phiền não trong lòng là người không biết tu. Đã không biết tu mà ở trong đạo thì không có lợi gì cho mình cũng như cho người. Tăng Ni nên nhớ mình chưa phải là thánh, đương nhiên vẫn còn sai lầm, thiếu sót. Được thầy bạn chỉ cho biết, chúng ta phải hoan hỷ cung kính nhận lỗi và sửa mới là người chân tu.

Phật dạy thân tứ đại, năm uẩn này là vô ngã, nếu chúng ta cho là thật thì mê muội chưa sáng suốt. Ngã không phải chân thật mà mê lầm nhận cho nó thật, là gốc của luân hồi sanh tử. Cho nên Phật dạy phải thấy năm uẩn là vô ngã, không thật, từ đó mới có thể gột sạch phiền não. Nếu thấy nó thật thì phiền não không bao giờ hết, tu không bao giờ được giác ngộ.

Mỗi đêm chúng ta tụng kinh Bát Nhã có câu: “Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không liền qua hết thảy khổ ách”. Năm uẩn đều không tức là vô ngã. Bởi vì nó không có chủ thể, không có cái ta thật nên gọi là vô ngã. Thấy rõ ràng như vậy thì mọi khổ ách đều qua hết. Tụng đi tụng lại Bát Nhã nhiều lần để chúng ta nhớ mà tu.

Nhiều người cạo tóc, mặc áo nhuộm, ở chùa ăn chay mà cái ngã chưa tiêu bao nhiêu. Nếu nhỏ ít ra cũng bằng sân chùa Thường Chiếu, còn lớn hơn thì bằng núi Thị Vải. Cứ ôm ấp cái ngã như vậy chừng nào giải thoát sanh tử, chừng nào sạch hết khổ đau? Tất cả Tăng Ni tha thiết tu hành để được giải thoát sanh tử thì những điều tối quan trọng đó phải thấy, chứ không có quyền bỏ lãng qua một bên, nuôi dưỡng mê lầm, tự mình chuốc khổ và làm khổ lụy cho nhiều người.

Thật ra trong giới tu hành, một trăm người chưa chắc được chục người hạ thấp bản ngã. Bởi vậy chúng ta phải can đảm nhận hiểu đạo lý chân chánh của Phật rồi ứng dụng tu mỗi ngày. Không nên chỉ đọc câu kinh bài kệ cho êm tai mà phải thâm nhập, thấm nhuần lời Phật dạy để chừa bỏ cái ngã của mình. Bản ngã do mê lầm chấp ngũ uẩn làm ta là đáng chê trách. Phải thấy rõ nó là tướng duyên hợp không thật để không tự cao, ngã mạn. Tất cả tâm ấy sạch hết thì trên đường tu mới hoàn toàn thanh tịnh. Từ tâm thanh tịnh đi đến giải thoát sanh tử. Đó là lẽ thật không nghi ngờ.

Tăng Ni hiểu được ý nghĩa Phật hoan hỷ trong ngày Tự Tứ, ứng dụng tu cho đúng thì giá trị sự tu ngày càng cao, đức hạnh ngày càng tăng trưởng. Như vậy mới xứng đáng là đệ tử của Phật, mỗi năm qua một mùa An cư tăng thêm một tuổi công đức. Nếu không như vậy chỉ là người làm lấy lệ, làm trò hề. Đã không có lẽ thật dù làm 10 lần, 20 lần, 50 lần cũng không có ý nghĩa và kết quả chút nào.

Mong rằng Tăng Ni ghi nhớ, thấm nhuần ý nghĩa hoan hỷ của đức Phật rồi ứng dụng tu. Nhờ tu mới thoát khỏi mê lầm được giải thoát sanh tử. Đó là chỗ tôi trông mong chờ


Thầy Thích Thanh Từ