Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2024

Góc nhìn khác ...

GÓC NHÌN KHÁC VỀ CUỘC CHIẾN TRANH NĂM 1979

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh cãi cho rằng cuộc chiến đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc chiến này. 

Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.

Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này cố gắng trình bày góc nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung năm 1979. Bài viết cũng đưa ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh có tính đặc thù trong tác chiến của Bắc Kinh là: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á.

Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy thời điểm mà Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông chỉ đưa ra được vài chi tiết cho rằng lãnh đạo Trung Quốc đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng 7 năm 1978. Nayan Chanda cho rằng trong cuộc họp đó giới lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có vẻ như  đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy yếu vị thế của Xô-viết trong thế giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp vì khá lâu sau đó cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước chứ không phải là một phần của chiến lược chống bá quyền toàn cầu.

Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng 9 năm 1978 đã có một cuộc họp của bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng giữa hai nước từ năm 1976.

Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi có tin tình báo cho biết cuộc tiến công vào Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra thì đa số người tham gia đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Phó Chủ Tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này với chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam. Trong chuyến thăm, ông ta đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể xảy ra.

Ngày 23.11.1978, Bộ Tổng Tham Mưu QGPND đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại đây kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ TTM đã quyết định mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào nhiều vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới Tỉnh Vân Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối vì ban lãnh đạo Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu, Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này và cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực lượng dự bị chiến lược QGPND bao gồm 4 quân đoàn cùng với 1 sư đoàn lấy từ quân khu Vũ Hán và Thành Đô để củng cố cho 2 mặt trận Quảng Tây, Vân Nam.

Ngày 7.12.1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10.1.1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh pháp truyền thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân để “Tập trung biển người, bao vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi bộ đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện cái tinh thần được cho là: sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô ơn của Việt Nam gây nên.

Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12.1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10.11 đến 15.12 năm 1978. Thực tế, cuộc họp này kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của Đặng Tiểu Bình trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam.

Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương vào trước đầu năm Dương lịch, Đặng Tiểu Bình đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất trên. Cũng tại cuộc họp này Đặng Tiểu Bình đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng Tiểu Bình đã cử hai phó tổng tham mưu trưởng của mình đến Côn Minh giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch.

Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt Nam, nhưng không thống nhất được là những ai đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng Tiểu Bình đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản thì ít có người dám thách thức quyết định của ông ta. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu, ông ta đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao Chủ Tịch, Đặng Tiểu Bình đã tham khảo ý kiến các đồng sự tin cậy một cách riêng tư trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự tán thành của Bộ Chính Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng Tiểu Bình là phó chủ tịch ĐCSTQ Trần Vân (Chen Yun), một cán bộ trung kiên của đảng - người đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công Việt Nam.

Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính Trị về phản ứng của phía Liên Xô. Liệu họ có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu họ có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế?. Mối lo lớn nhất vẫn là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình đều tin rằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp Liên Xô tấn công.

Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công du nằm trong kế hoạch của Đặng Tiểu Bình đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm dò phản ứng dư luận”. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không.

Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng Tiểu Bình đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy Trung ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày vào ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của Đặng Tiểu Bình trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt trong Quân ủy Trung ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ TTM lại tổ chức một cuộc họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng 2. Để đề phòng tình hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui sau khi quân của ông ta chiếm được hai thành phố Lạng Sơn cùng với Cao Bằng.

Ngày 11.2.1979, hai ngày sau khi Đặng Tiểu Bình trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng Tiểu Bình trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, sau đó mệnh lệnh phát động cuộc tấn công vào ngày 17.2.1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt cũng được tham dự. Một số lý lẽ được đưa ra rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng Tiểu Bình và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân đội đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế.

Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, cũng như lật tẩy sự nhu nhược của Liên Xô.

Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian.

Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu diệt sinh lực địch. Một trong những truyền thống tác chiến của QGPND là chiến thuật biển người để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng 1.1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320.000 lính. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến thuật gọi là niudao shaji (ngưu đao sát kê – dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ đối phương thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hoàn toàn.

Theo tinh thần chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây tiêu diệt các sư đoàn quân Việt Nam tại đó đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng cộng 8 quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, một quân đoàn được giữ lại làm lực lượng dự bị. Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân ủy Trung ương ra lệnh không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân ủy Trung ương. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến.

Từ cuối tháng 12.1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Vì trước đó hầu hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào bộ đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm.

Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự là sử dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên Xô”, đang cố theo đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia láng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.

Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã đề xướng kể từ sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù”, Bắc Kinh đã triển khai chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị đặc biệt và địa phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000 người, tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Các đơn vị không quân chiến đấu đã xuất kích 8.500 phi vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các đơn vị vận tải và trực thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không vận; Hải quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu trục tên lửa và ba hải đội tàu trang bị tên lửa và ngư lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải quân Liên Xô nếu có. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn dân quân và dân công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị xã của Việt Nam cùng hơn một chục thành phố nhỏ và thị trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã loại ra khỏi vòng chiến đấu 57.000 bộ đội Việt Nam, đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn quân chính quy và mười trung đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam 1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc.

Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng bộ đội Việt Nam “đã trên tay” quân Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND và thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn cùng với một số thành phố khác sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài liệu chính thức của Việt Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột, trong khi đó các thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính quy Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn.

Một xu hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 60.000 QGPND thương vong trong khi làm nhiệm vụ. Gần đây có nguồn từ Trung Quốc đưa ra   thiệt hại của QGPND là khoảng 22.000 thương vong trong cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham dự. Dù thế nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu trong chiến thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân cho chiến thắng. 

Theo quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến 1979 là một biện pháp quân sự có tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham vọng toàn cầu của Liên Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết quân sự hiện đại và chiến thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh chóng và không bị sa lầy ở Việt Nam. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng mức độ phản ứng của Liên Xô. Điều quan trọng của cuộc chiến Việt-Trung 1979 là nó đã khởi đầu cho một chính sách làm “chảy máu” Việt Nam trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội ra Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi nhưng họ không tiên liệu được rằng cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn chiến lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo binh bắn phá cùng những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980.

Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”.

Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không bao giờ hiểu hết các động thái chiến lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, họ giữ quan điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 là màn mở đầu của một kế hoạch xâm lược dài hạn nhằm vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội Trung Quốc đã trở lại trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với Trung Quốc. Giai đoạn này, nền kinh tế của Việt Nam đang rơi vào thời điểm “ở trong một tình trạng tồi tệ hơn lúc nào hết kể từ sau năm 1975”. Kết quả là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc chiến tranh cùng một lúc - cuộc chiến ở Campuchia và biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi phí rất lớn của xã hội và kinh tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà Nội cần có cho việc hiện đại hóa nền kinh tế và làm giảm tham vọng về địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ thuộc vào Liên bang Xô viết cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người Việt Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”.

...

( Trích )

 

Theo Thời Đại Mới

* Nguồn: Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, The China Quarterly, Vol. 184 (12/2005), pp. 851-874.

* Bài viết trên của một học giả gốc Trung Quốc (giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Chiến - Air War College, Bộ Không Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly (một tạp chí quốc tế uy tín xuất bản tại Anh) là một công trình học thuật đáng chú ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả dù có thể một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó, cung cấp nhiều thông tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu.

* Photo: Lính Trung Quốc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét