" Phải Trái rụng theo Hoa buổi sớm
Danh Lợi lạnh với trận mưa đêm
Hoa tàn mưa tạnh non im vắng
Xuân cỗi còn nguyên một tiếng Chim "
- Trần Thái Tông -
HAI MƯƠI ĐIỀU KHÓ
1- Nghèo khổ bố thí là
khó
2- Giàu sang học đạo
là khó
3- Bỏ thân mạng vì lẽ
phải là khó
4- Hiểu được và thông
suốt kinh Phật là khó
5- Sinh cùng thời với
Phật và gặp Phật là khó
6- Nhẫn chịu được sắc
dục là khó
7- Thấy tốt đẹp không
ham cầu là khó
8- Bị nhục mà không
oán hờn là khó
9- Có thế lực không
cậy uy quyền là khó
10- Đối cảnh tâm không
lay động là khó
11- Học rộng, nghiên
cứu nhiều là khó
12- Trừ diệt cống cao
ngã mạn là khó
13- Không khinh khi
người chưa học là khó
14- Thực hành tâm bình
đẳng là khó
15- Chẳng nói phải
trái là khó
16- Gặp được thiện tri
thức là khó
17- Học đạo, kiến tánh
là khó
18- Tùy duyên hóa độ
là khó
19- Thấy cảnh vô tâm
là khó
20- Khéo biết phương
tiện độ sinh là khó
- Lời Phật dậy -
- Lời Phật dậy -
Phật dạy 20 điều khó, không mang một sắc thái bi quan hay chán
chường mà nhằm chỉ dạy cho chúng ta phải ý thức rằng sự sống này là phải nương
nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống, trên nền tảng của nhân quả. Và chúng ta
phải cố gắng, rèn luyện nhân cách, đạo đức tâm linh, để vượt lên trên những gì
tầm thường của thế gian.
Hễ
được làm người là một điều vô cùng cao quý và hơn hẳn các loài khác nhờ biết
suy nghĩ, nhận định phải quấy, tốt xấu, đúng sai. Cuộc sống của chúng ta là một
chuỗi dài nhân duyên chằng chịt đan xen lẫn nhau, cho nên ta phải có trách
nhiệm thương yêu, bao bọc che chở cho nhau bằng trái tim hiểu biết. Ai sống mà
có hiểu biết chân chính và nhận thức đúng đắn, nhờ tin sâu lời Phật dạy thì họ
sẽ dễ dàng vươn lên những chướng duyên, nghịch cảnh mà vượt qua cạm bẫy cuộc
đời bằng tình người trong cuộc sống.
Hai
mươi điều “Khó” ở đây không có nghĩa là không làm được mà Phật muốn nhắc nhở
chúng ta ý thức rằng, ai muốn trở thành những bậc Thánh nhân, những vị Bồ tát
và thành Phật trong tương lai, trước tiên cần phải vượt qua 20 điều khó này.
Khó, được xem như là yếu tố quan trọng để nung đúc tinh thần chúng ta thêm sức
chịu đựng bền bỉ và vững vàng trên con đường Phật đạo, là hành trang quý báu,
không thể thiếu trong đời sống tu hành của chúng ta.
Như
chúng ta đã biết, dùng tâm đại từ bi rộng lớn để giúp cho mọi người sống trong
chính niệm tỉnh giác thật là việc khó. Tin sâu Tam bảo là một việc khó. Tin sâu
nhân quả thiện ác cũng là một việc khó và tin chính mình có khả năng thành Phật
lại càng khó hơn. Và chúng ta tin rằng mọi người đều có thể chuyển hoá được
phiền não tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến là một việc khó, tuy những điều này
là rất khó đối với những người quá tham lam ích kỷ.
CHÚ GIẢI 20
ĐIỀU KHÓ
1. Nghèo khó bố thí là
khó
Cái
khó đầu tiên, được nêu lên trong bản kinh Tứ thập nhị chương trong chuỗi dài 20
cái khó lại là sự bố thí của người nghèo khổ.
Người
nghèo khổ được định nghĩa là người thiếu thốn, khó khăn về phương diện sở hữu
tài sản, vật chất như tiền bạc của cải. Về vật chất, họ cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, nợ nần chồng chất. Về tinh thần họ khó mở rộng tấm lòng nhân ái.
Còn
bố thí là sự cho cùng khắp rộng rãi với tinh thần cho, tặng, biếu, giúp đỡ,
chia sẻ, ban, hiến, tặng và cuối cùng là cúng dường một cách tự nguyện với lòng
tôn kính, nó đòi hỏi người cho phải giàu có dư dã nhiều tiền của. Với người
bình thường thì ta dùng từ cho, giúp đỡ, hiến, tặng. Với người có địa vị cao
trong xã hội thì ta dùng từ kính tặng hay kính biếu. Với cha mẹ ông bà hoặc
thầy tổ, thầy cô giáo thì ta dùng từ cúng dường. Cũng là từ bố thí nhưng tùy
theo vị trí và chức năng địa vị trong gia đình và xã hội mà ta dùng từ ngữ có
khác nhau để tỏ lòng cung kính và tôn trọng.
Đằng
này, người nghèo dù thiếu thốn, khó khăn nhưng vẫn biết làm việc bố thí, cúng
dường thì còn gì cao quý hơn, chúng ta hãy nên khích lệ và tán thán những người
như thế. Họ là những vị Bồ tát đích thực trong hiện tại và mai sau.
Nghèo
khổ mà biết bố thí, cúng dường là nói lên ý nghĩa cao cả của lòng từ bi rộng
lớn bằng tình người trong cuộc sống, nó nói lên thái độ không oán trách, không
than vãn, không đổ thừa hoàn cảnh, thể hiện lòng vị tha với sự bao dung và độ
lượng, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Ngoài
ra, ta còn thấu hiểu được rằng người nghèo khổ mà biết bố thí, cúng dường là
người đã có lòng tin sâu sắc đối với nhân quả nghiệp báo. Họ nhận ra rằng sự
nghèo khó, là bởi ảnh hưởng của nghiệp nhân quá khứ do tham lam, ích kỷ, bỏn
sẻn, keo kiệt, và trộm cướp lừa gạt của người khác.
Trong
các hạng người ở xã hội với đủ các thành phần từ bậc vua chúa quan quyền cho
đến thứ dân bần cùng. Người nghèo khổ mà biết bố thí là điều khó nhất. Vì sao?
Vì nghèo thì thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, nợ nần chồng
chất thì thử hỏi làm sao có thể bố thí, giúp đỡ cho người khác được?
Thời
đức Phật, có hai vợ chồng là phật tử thuần thành rất kính tin Tam bảo, nhưng
hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa đói, bữa no, cơm không đủ ăn, áo không đủ
mặc. Một hôm, người chồng đến chùa làm công quả thấy các phật tử xa gần đem
nhiều vật thực đến cúng dường Tam bảo, anh phát tâm vui vẻ tùy hỷ và vô cùng
phấn khởi khi thấy những việc làm có ích và cao cả như thế.
Về
nhà, trong lòng anh chợt dấy khởi lên tâm mong muốn cúng dường Tam bảo, nhưng
ngặt nỗi nhà anh quá nghèo, không có cái gì để mang đến chùa cúng dường, anh ta
tủi thân, buồn rầu, lo lắng cho đến mất ăn, mất ngủ. Người vợ biết được tâm
niệm tốt của chồng, bèn nói với anh rằng hay là anh đem bán em đi, để lấy tiền
cúng dường. Người chồng nghe bà xã nói vậy càng buồn thêm, vì ai nỡ nhẫn tâm
làm như thế, cuối cùng cả hai vợ chồng bàn nhau đi mượn nợ cúng dường và sau đó
chấp nhận ở đợ, làm mướn suốt đời.
Sau
khi suy tính, đắn đo, chọn lựa, kỹ càng hai vợ chồng liền đến nhà ông phú hộ
trong làng để trình bày ý muốn như thế và sau khi cúng dường xong hai vợ chồng
phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời cho phú ông. Phú ông nghe nói thế liền cho
mượn và trong lòng cũng vui theo.
Nhận
được tiền, hai vợ chồng vui mừng mang đến cúng dường trai tăng với tất cả tấm
lòng thành kính và sự biết ơn. Buổi lễ cúng dường đã được sáu ngày và chỉ còn
một ngày nữa thôi là hai vợ chồng phải đến nhà ông phú hộ ở đợ trả nợ suốt đời.
Cũng cùng ngày đó nhà vua muốn làm một việc phước đức nên đã đến chùa cúng
dường. Nhưng sau khi biết được câu chuyện, có hai vợ chồng nhà nghèo mượn nợ
cúng dường trai tăng, làm cho nhà vua cảm động và thương xót vô cùng.
Về
triều, nhà vua đem chuyện này thuật lại cho các quan quân, quần thần cùng nghe,
ai cũng đem lòng mến mộ và cảm phục hai vợ chồng nghèo kia. Và sau đó, nhà vua
truyền lệnh cấp phát tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn cho hai vợ chồng nghèo đó có
tiền trả nợ và còn dư chút đỉnh để làm ăn sinh sống. Từ đó hai vợ chồng trở nên
giàu có và càng tin sâu Tam bảo hơn, cho nên thường xuyên phát tâm bố thí, cúng
dường và giúp đỡ người nghèo khó nhiều hơn.
Người
nghèo khổ mà dám phát tâm thực hành bố thí, cúng dường là một điều rất khó, như
hai vợ chồng trong câu chuyện trên thật là hiếm thấy trong thời của chúng ta.
Một
vị minh quân hay một ông vua sáng suốt, hiểu được đạo lý làm người biết phát
huy những việc làm phước đức như ông vua kể trên thật là hạnh phúc cho tất cả
mọi người chúng ta. Lịch sử nhân loại đã từng có rất nhiều vị lãnh đạo quốc gia
làm được những việc như thế. Ở Việt Nam có Trần Nhân Tông, một vị vua lãnh đạo
đất nước bằng tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật, hướng dẫn dân chúng tu hành
theo tinh thần Phật dạy, xây dựng nên một nước Việt Nam hùng cường về mọi mặt,
bên ngoài chiến thắng giặc ngoại xâm, bên trong dân chúng sống cơm no, áo ấm và
bình yên hạnh phúc.
Đạo
lý nhà Phật dạy con người sống có ích cho đời và đạo, không vì lợi ích riêng tư
mà làm khổ mình, khổ người. Người phật tử khi thực hành bố thí cho người, dù họ
là người ăn xin hay kẻ tật nguyền cũng đều phải cung kính tôn trọng, không cho
mình là người cao quý, mà có thái độ xem thường hay khinh rẻ.
Tóm
lại, người nghèo khổ mà biết thực hành bố thí, cúng dường với lòng thành kính
quả là một điều rất khó, ngoại trừ người này đã kính tin Tam bảo, tin sâu nhân
quả và tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc.
2. Giàu sang học đạo
là khó
Ở
thế gian này nhiều người giàu có sung mãn đầy đủ vật chất ít bao giờ nghĩ đến
việc tu học, tín tâm Tam bảo và tin sâu nhân quả. Họ đam mê, dính mắc vào những
tài sản vật chất như đất đai, ruộng vườn, nhà cao cửa rộng, xe hơi và tiền bạc.
Chính sự giàu có về sở hữu vật chất quá đáng nên đã làm cho họ bị trói buộc
trong tham ái và lo sợ mất mát. Họ cho rằng vật chất là mục đích tối hậu của
cuộc sống, nên suốt ngày họ đua đòi, bon chen chạy theo tiền tài, sắc đẹp, danh
vọng, ăn ngon, mặc đẹp ngủ nhiều.
Tại
sao, giàu có học đạo khó? Người giàu có, luôn bận rộn trong việc kiếm tiền cho
nên niềm đam mê của họ giống như chất keo dán sắt dính vào khó gỡ ra. Họ mải mê
lo làm giàu, bận rộn trong đời sống đua chen, giành giật và sợ bị mất mát hao
hụt nên họ càng bám víu vào đó để giữ gìn.
Trong
kinh Phật dạy, quả báo của những kẻ giàu sang, nhờ biết bố thí nhưng không chịu
tu học hạnh giác ngộ giải thoát, nên không có trí huệ sau khi thân hoại mạng
chung, sẽ có thể tái sinh làm voi, ngựa quý cho nhà vua. Hai loài đó, tuy được
trang sức lộng lẫy, để chở nhà vua và hoàng hậu đi đây đó ngắm cảnh xem hoa,
vui thú cảnh sông hồ thiên nhiên đẹp đẽ. Chính vì thế, giàu sang mà biết buông
xả để học đạo giải thoát quả là một điều rất khó. Cho nên giàu sang mà biết học
đạo được liệt vào hàng thứ hai, đối lập với nghèo khổ mà biết bố thí.
Quá
giàu và quá nghèo mà làm được việc ân nghĩa là điều hy hữu, hiếm có xưa nay
nhưng không phải là không có. Những tấm lòng vàng, những nhà hảo tâm, triệu
phú, tỷ phú họ đã từng đóng góp đáng kể vào các dịch vụ từ thiện, xây dựng mở
mang cầu đường, chùa to Phật lớn đều là do những người giàu có nhất phát tâm
ủng hộ. Và quan trọng hơn hết, ngoài việc bố thí cúng dường giúp đỡ sẻ chia, họ
còn biết buông xả những tâm tư chấp trước dính mắc mê muội, nên cuộc sống của
họ lúc nào cũng bình yên hạnh phúc.
Giàu
như vua Tần Bà Sa La, trưởng giả Cấp Cô Độc ngày xưa khi Phật còn tại thế, họ
vừa phát tâm bố thí cúng dường và vừa phát tâm học đạo giải thoát, nên ngày hôm
nay chúng ta biết được những tấm gương sáng ngời có cả hai mặt phước báo và trí
tuệ. Có phước báo nên giúp được nhiều người, có trí tuệ nên không tham đắm dính
mắc vào bất cứ một thứ tài sản sở hữu nào, do đó tâm an nhiên tự tại mà không bị
phiền não tham-sân-si chi phối.
Và
để nói lên giá trị của người giàu có nhưng mà vẫn thiết tha học đạo, chúng tôi
sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng
giả tên là Tu Đạt, nhà giàu nhất nước Kiều Tát La do vua Ba Tư Nặc trị vì.
Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma Kiệt Đà của vua Tần Bà Sa
La, mua bán xong ông trở về nhà người anh rể của mình để nghỉ ngơi.
Thường
lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra trước ngõ đón tiếp ân cần, niềm
nở nhưng hôm nay ông thấy không ai quan tâm để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông
lấy làm ngạc nhiên mới hỏi người anh rể, mới biết cả nhà đang bận rộn việc
chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ kheo trong tăng đoàn của đức
Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu Đạt thắc mắc với người anh rể: “Phật
là gì mà mọi người phải cung kính, tôn trọng?”
Người
anh rể bảo rằng: “Đức Phật trước đây là Thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn
và Hoàng hậu Ma Da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà dám từ bỏ ngôi vị,
cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ để xuất gia tu hành,
nay đã thành Phật”.
Tu
Đạt nghe qua, bỗng cảm thấy trong lòng an ổn lạ thường nên muốn gặp đức Phật
liền tức khắc, nhưng lúc này trời tối đành chờ lại sáng mai. Vì khao khát và
mong muốn được gặp đức Phật nên suốt cả đêm, ông không sao ngủ được.
Tờ
mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật đang
tịnh dưỡng. Vừa mới tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu Đà Cấp Cô
Độc, ta là người mà ông cần gặp đây”. Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái
tên Tu Đà của ta chỉ có người trong gia tộc mới biết và không ai được gọi, thế
mà ở đây lại có người biết và gọi mình như vậy? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây
có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngớ ngẩn, ông thấy một
người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới.
Bất
giác Tu Đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy thoải mái và
an lạc vô cùng. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho
người tại gia.
Nghe
xong bài pháp, Tu Đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu Đà Hoàn, nghĩa là được vào dòng
Thánh, không còn bị đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ.
Sau đó ông phát nguyện quy y Tam bảo, gìn giữ năm điều đạo đức và phát tâm cúng
dường hộ trì Tam bảo, suốt đời giúp đỡ người bất hạnh nghèo khó. Nhờ tín tâm
thuần thục, ông xin Phật cho xây dựng một tịnh xá lớn để chư tăng có chỗ giáo
hóa và tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông.
Cấp
Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà
cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân
từ, thường giúp đỡ mọi người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp Phật, ông
càng mở rộng tấm lòng bao la rộng lớn hơn.
Từ
đó, ông trở về nước để tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, nhằm
xây dựng một tịnh xá lớn cho chư tăng tu học, giáo hoá và hành trì. Ông tìm mãi
mà không thấy nơi nào có miếng đất vừa ý, ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ Đà -
con vua Ba Tư Nặc. Thái tử Kỳ Đà giàu có, đâu cần bán đất để làm gì? Nhưng vì
quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ Đà bảo rằng:
“Tôi
sẵn sàng bán khu vườn cho ông với một điều kiện duy nhất, ông phải trải vàng
lót đầy đất”.
Nghe
Thái tử nói thế Cấp Cô Độc mừng quá nên đồng ý liền, và cho người nhà chở vàng
đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Cấp Cô Độc đang suy
nghĩ nên lấy số vàng trong kho nào để lót cho đủ, Thái tử Kỳ Đà đến hỏi:
“Bộ
ông tiếc của hay sao mà đứng ngẩn người ra như thế?”
Cấp
Cô Độc trả lời:
“Thưa
thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem phải xây dựng tịnh xá như thế
nào để chứa đủ chư tăng và phật tử các nơi về đây nghe pháp và tu tập”.
Nghe
vậy, Thái tử Kỳ Đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức Phật và tăng
đoàn, thái tử tuyên bố:
“Kể
từ giờ phút này, ông khỏi cần lót vàng nữa đất khu vườn này thuộc về ông, còn
rừng cây trong vườn tôi xin hoan hỷ cúng dường cho đức Phật”.
Ngày
nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: “Tôi nghe như vầy, một thời đức
Phật ở rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc…” Đây chính là tịnh xá trong khu vườn do
Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà cùng dâng cúng. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp
độ sinh, đức Phật đã ở tại tịnh xá này suốt 25 mùa an cư kiết hạ.
Nói về
Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng tôn kính cúng
dường Tam bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng thành kính của mình.
Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng
cạn kiệt, do bị lũ lụt cuốn trôi. Gia tài sự nghiệp đã tan tành theo mây khói,
cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn một lòng
tín tâm, chia bớt phần ăn của mình để cúng dường chư tăng.
Nhờ
phước đức bố thí, cúng dường quá lớn lao cùng với lòng thành kính của ông trong
quá khứ và hiện tại, nên chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn được khấm khá
trở lại. Và ông vẫn tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước đây mà
không biệt thân sơ.
Đạo
lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của
hạnh bố thí, sẻ chia. Qua đó, chúng ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm
chân thành và lòng tôn kính như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên
với ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh
này. Chúng ta nên nhớ rằng, phát tâm bố thí, cúng dường như gửi tiền vào ngân
hàng, tuy không thấy có tiền nhưng khi cần xài liền rút ra.
Cấp
Cô Độc phát tâm cúng dường Tam bảo không biết mệt mỏi, nhàm chán, ông còn giúp
đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần
chúng nhân dân tặng cho danh hiệu là Cấp Cô Độc.
Trong
lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí, cúng dường để
chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân cách, lối sống, đạo
đức… phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người có đủ niềm tin Tam bảo, được
chứng quả bất thối chuyển, người đó dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế
nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt của mình.
Bố
thí, cúng dường là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại bằng tình người
trong cuộc sống, là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ta cùng ngồi lại bên
nhau, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Bố
thí, cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ tát để từng bước tiến lên con
đường Phật đạo. Nhờ bố thí, cúng dường mà tâm ta được an lạc, thảnh thơi, thấy
ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy ai là kẻ thù, nên mọi
người dễ dàng thương yêu và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau hơn.
Phật
dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy
đủ, giàu sang như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài, còn người không biết
gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu
nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.
Cấp
Cô Độc là người giàu có, ngoài việc biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ sẻ chia,
ngài còn là tấm gương sáng trong việc tu học và còn hướng dẫn toàn thể gia tộc
tin sâu nhân quả và tín tâm Tam bảo. Nhờ vậy, trước khi mạng chung ngài được
Tôn giả Xá Lợi Phật và Tôn giả A Nan đến khai thị và sau đó an nhiên tự tại ra
đi mà được sinh về cõi trời.
Còn
chúng ta bây giờ là người xuất gia lúc nào cũng khuyên nhủ mọi người buông xả,
nhưng ngược lại ta lại tham đắm chất chứa, nên một số người sống tèn tèn chẳng
làm gì lợi ích cho ai mà vẫn thọ dụng của đàn na tín thí.
Nhiều
người giàu có sẵn sàng bỏ ra hàng trăm tỉ để cúng dường Tam bảo, xây chùa to
Phật lớn nhằm tạo thêm lòng tin cho mọi người biết, sự cao quý và giá trị thiết
thực của đạo Phật, được xây dựng trên nền tảng nhân quả. Cho nên giàu có mà
biết bố thí, cúng dường và khiêm tốn thấp mình học đạo, đó là gương sáng của
các vị đại Bồ tát mới có thể làm được. Chúng ta phải biết trân trọng và tôn
kính. Do đó Phật dạy giàu có mà biết bố thí, cúng dường là điều khó.
3. Bỏ thân mạng vì lẽ
phải là khó
Mạng
sống con người quý giá vô cùng cho nên xã hội đều có luật pháp hẳn hoi, để
trừng trị những ai đánh mắng làm gây thương tích hoặc giết người. Bởi thế cho
nên, đã là con người tất nhiên ai cũng tham sống, sợ chết. Tâm lý ấy phổ biến,
đến nỗi nó trở thành bản năng số một của con người. Bản năng thứ hai là sống để
hưởng thụ. Bỏ thân mạng vì lẽ phải rất là khó. Vì sao? Vì ai cũng quý trọng
thân này, ai cũng tham sống sợ chết không ai muốn chết một cách vô lý hoặc chết
vì một lý tưởng nào đó nếu không có lợi ích.
Lẽ
phải, đứng trên quan điểm Phật giáo mà phân tích thì nó là chân lý của cuộc
đời. Và làm cách nào để con người biết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ, lẫn nhau
bằng trái tim hiểu biết nhờ vậy mà giải thoát mọi phiền muộn khổ đau. Chết vì
lẽ phải là thực hiện và bảo vệ chân lý lời Phật dạy trên bước đường hoằng hóa,
trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Đó là cách thức bảo vệ lẽ phải tối
cao nhất trong cuộc đời của người phật tử chân chính.
Đứng
về cuộc đời, nó có thể là sự hy sinh cao cả và bảo vệ sự tồn vong của một đất
nước, vì quyền lợi của một dân tộc và nói chung là của cả toàn thể nhân loại.
Nếu thế giới này không có những đất nước vì quyền lợi chung, bảo vệ hòa bình
cho nhân loại thì trái đất này sẽ là bãi chiến trường đẫm máu, bởi vì lòng tham
lam và sự ích kỷ của một số người quá cuồng tín.
Có
nhiều người cho rằng lẽ phải thuộc về kẻ chiến thắng và người thua là kẻ nghèo,
nghèo không có quyền nói hay đóng góp một cái gì đó cho kẻ chiến thắng. Đây là
quan niệm sai lầm của một số người thiếu hiểu biết, họ chỉ vì quyền lợi riêng
tư mà dùng thế lực để đè bẹp thiên hạ.
Muốn
hiểu hết được ý nghĩa sâu xa lời Phật dạy, trước hết ta cần phải nêu ra những
tấm gương sáng dám hy sinh thân mạng của mình để bảo vệ đạo và đời được trường
tồn. Đời người, cuối cùng rồi ai cũng phải chết chỉ đến sớm hay muộn mà thôi,
nhưng nếu được kết thúc vì mục đích lợi tha hướng thượng sẽ đem lại giá trị
thiết thực cho nhân loại và mang ý nghĩa cao cả vô cùng xứng đáng được tán
dương và khen ngợi.
Trong
lịch sử Phật giáo, chúng ta hết sức khâm phục tấm gương sáng, của Tôn giả Phú
Lâu Na về tinh thần học đạo chí thiết và tấm lòng vô ngã vị tha muốn đem ánh
đạo vàng tới một nước dân chúng sống không biết lẽ phải, tàn nhẫn ác độc.
Đức
Phật biết dân ở xứ này khó giáo hóa độ sinh, phải là những người có tấm lòng từ
bi rộng lớn và cao cả thì hoạ may mới cảm hoá được họ. Sau một loạt chất vấn
thử thách đệ tử của mình, Tôn giả Phú Lâu Na chứng tỏ được khả năng và bản lĩnh
của mình qua sự chịu đựng, an nhẫn vô điều kiện.
Phật
hỏi: “Giả sử người dân nước đó chửi, đánh mắng, ném đá hoặc dùng dao gậy giết
ông, thì ông phải đối xử với họ ra sao?” “Nếu họ có chửi hoặc đánh mắng hay ném đá và
sau đó có thể dùng dao gậy để giết con thì con sẽ cám ơn họ, vì nhờ họ mà con
tăng thêm khả năng chịu đựng, trong hoàn cảnh không được hài lòng vừa ý. Và nếu
họ có giết con thì con càng cám ơn họ hơn, vì họ đã giúp cho con thoát khỏi cái
thân nhơ nhớp này”. Với tấm lòng bao dung và độ lượng đó, tôn
giả đã độ được 500 người xuất gia và vô số người quy y Tam bảo phát nguyện gìn
giữ năm điều đạo đức.
Tóm
lại, Phật dạy: “Dám chết vì lẽ phải”
là một điều khó làm vì bản tính con người vốn tham sống, sợ chết. Điều này cũng
không đáng chê trách, vì mặt khác đức Phật cũng dạy rằng: “Mạng sống con người vô cùng quý giá”.
Cho nên, chúng ta phải biết trân trọng nó, gìn giữ nó, bảo vệ nó, nhưng gặp
đúng trường hợp đòi hỏi sự hy sinh mạng sống quý báu này để phục vụ lợi ích cho
nhiều người, một chân lý tuyệt mỹ hoàn hảo hơn thì chúng ta cần phải hy sinh
cái ta của mình đi.
Như
có một kiếp khi Bồ tát chưa thành Phật, trên một chiếc thuyền có 500 thương
buôn sắp sửa bị một bọn cướp khống chế, hành hung để lấy tài sản, của cải. Bồ
tát phải hy sinh thân mạng của mình, nên đã ra tay giết chết bọn cướp kia và
cứu được 500 người thương buôn. Về mặt nhân quả giết người Bồ tát sẽ chịu tội
oán thù với bọn cướp đó, về mặt nhân sinh Bồ tát đã giúp cho những người thương
nhân, đem hàng hóa của cải để nuôi sống nhiều người dân.
Tinh
thần này rất được tán thán và ca ngợi, vì đó là bảo vệ chân lý là bênh vực cho
lẽ phải. Nếu không có Bồ tát ra tay nghĩa hiệp thì số người thương buôn sẽ bị
khống chế, bị đánh đập, bị giết chết và những tài sản của cải đó rơi vào bọn
cướp.
Ngày
nay tinh thần này được tiếp tục phát huy qua các chàng hiệp sĩ đường phố, sẵn
sàng hy sinh tính mạng của mình để lấy lại tiền bạc của người bị giật bởi những
tên cướp khát máu không có tình người trong cuộc sống.
Cho
nên, chúng ta phải hiểu rằng khi đức Phật liệt sự hy sinh vì lẽ phải là một
điều khó làm, để chúng ta tùy nhân duyên mà làm những việc lợi ích cho số đông.
Điều mà chúng ta đang thực hiện, nó thuộc về sự bất đắc dĩ mà không có sự tính
toán, chỉ thấy khổ thì giúp, thấy nguy thì cứu để đem lại lợi ích cho cả cộng
đồng.
Từ
đó, chúng ta rút ra kinh nghiệm làm được việc nghĩa để giúp người cứu vật quả
thật là một điều rất khó làm, ai mà làm được điều đó, chính là những vị Bồ tát
đích thực trong hiện tại và mai sau.
4. Hiểu được và thông
suốt kinh Phật là khó
Kinh
Phật ở đây chỉ chung cho Tam tạng thánh điển, nó thuộc về những lời dạy vàng
ngọc của Phật, bao gồm Kinh, Luật, Luận và ngay cả những lời thuyết pháp của
các pháp sư và các vị cư sĩ. Hiểu hết kinh Phật là một điều rất khó, vì Phật
tùy theo căn cơ của mọi người mà chỉ dạy nên có rất nhiều loại kinh chẳng tương
đồng với nhau.
Người
nào muốn giác ngộ, giải thoát thì Phật chỉ dạy pháp Tứ đế, mười hai nhân duyên.
Muốn thành Phật thì hành Bồ tát đạo tu lục độ vạn hạnh bố thí, trì giới, tinh
tấn, thiền định, nhẫn nhục và trí huệ. Muốn đời sau làm người trở lại sống có
nhân cách đạo đức, Phật khuyên quy y Tam bảo và gìn giữ năm điều đạo đức là
không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không
uống rượu say sưa hay dùng các chất kích thích có hại như xì ke, ma túy. Ai
muốn được sinh các cõi trời hưởng phước muốn gì được nấy, Phật dạy tu mười điều
thiện lành tốt đẹp và các bậc thiền định.
Giáo
lý của Phật chỉ dạy có ba mục đích: Một là dành cho người xuất gia giải thoát
sinh tử. Hai là tu Bồ tát hạnh cho đến khi thành Phật mới thôi. Ba là tu còn
trong luân hồi sinh tử hưởng phước báu cõi trời người.
Tóm
lại, hiểu được kinh Phật hẳn là một điều khó, ta chỉ cần nắm vững ba cương yếu
trên, khi đọc kinh Phật dễ dàng nhận ra nghĩa lý sâu xa của nó. Và ta sẽ không
bàng hoàng sửng sốt khi có quá nhiều loại kinh, tất cả cũng chỉ vì tuỳ bệnh cho
thuốc của mọi người. Chúng sinh có nhiều bệnh thì Phật pháp có nhiều thuốc để
trị liệu, ai hợp với thuốc nào thì mau lành bệnh. Cho nên hiểu được kinh Phật
là điều khó.
5.
Sinh cùng thời với Phật và gặp Phật là khó
Được sinh ra trong thời Phật là rất khó và gặp Phật
để học hỏi những lời dạy của Ngài lại càng khó hơn. Phật ra đời đã trên 2600
năm. Đức Phật là con người giác ngộ, tỉnh thức hoàn toàn không còn bị phiền não
tham-sân-si làm tổn hại. Ngài tùy duyên giáo chúng sinh không biết mệt mỏi,
nhàm chán. Ngài là một con người bằng xương bằng thịt như tất cả mọi người
chúng ta. Ngài là bậc vĩ nhân trên các vĩ nhân. Ngài không phải là một đấng
thần linh thượng đế ban phước, giáng hoạ.
Ngài
chỉ là vị thầy dẫn đường trong đám người lạc hướng giúp cho chúng ta biết được
chân lý cuộc đời, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Cho
nên, sinh cùng thời với Phật và được gặp Phật là một phước duyên to lớn mà ít
ai có được nhân duyên tốt đẹp. Chính vì vậy mà ta cứ mãi chịu luân hồi sinh tử
hoài.
Sự
ra đời và thị hiện của các đức Phật đã hiếm, mà có duyên được gặp Phật lại càng
hiếm hơn, vì nếu không đủ phước đức nhân duyên như bà lão giữ kho cho trưởng
giả Cấp Cô Độc thì tuy sinh ra cùng thời với Phật mà không được gặp Phật. Trong
khi đó cả gia đình và họ tộc của trưởng giả ai cũng được gặp Phật và nhờ vậy mà
tất cả đều sống nhân từ đạo đức hết vì biết tin sâu nhân quả và tin chính mình.
6. Nhẫn chịu được sắc
dục là khó
Nhẫn
không chỉ giới hạn ở sự chịu đựng những lời nhục mạ, dèm pha hay bị chỉ trích
hoặc bị vu khống. Nhẫn ở đây còn có ý nghĩa sâu rộng hơn là không đam mê, không
dính mắc nhiễm đắm ngũ dục tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều.
Người
đời gặp chuyện bất bình chịu nhẫn, không nổi nóng, gặp điều trái ý nghịch lòng
chịu đựng an nhẫn không bực tức hay tỏ thái độ gì buồn phiền. Nhẫn được như vậy
được coi là có trình độ cao về nhẫn rồi, nhưng chưa phải là nhẫn cao thượng.
Được gọi là nhẫn xuất thế là kham nhẫn đối với sắc dục. Mắt thấy sắc không bị
sắc lôi cuốn làm cho dao động và nô lệ cho sắc.
Lòng
ham muốn sắc dục rất mãnh liệt, vì đó là bản năng mạnh thứ hai của con người.
Bản năng thứ nhất là tham sống sợ chết. Bản năng thứ hai là hưởng thụ luôn thúc
bách con người tìm kiếm lạc thú; lạc thú cao nhất là ân ái nam nữ. Phật dạy:
"Nếu có thêm một cái thứ hai nào hấp dẫn như
sắc dục, thì chúng ta khó có thể tu đến giác ngộ, giải thoát".
Và
điều quan trọng trong cuộc sống của chúng ta là sắc dục trở thành nhu cầu cao
trong nhiều người, rất khó nhịn chịu mà vượt qua được. Sự trói buộc của sắc dục
rất đa dạng như vòi của bạch tuột. Trong kinh đề cập đến sự trói buộc giữa
người nam người nữ là sự trói buộc qua nhan sắc, qua tiếng cười, qua lời
nói, qua lời ca tiếng hát, qua nước mắt, qua áo quần, qua vật tặng, qua sự xúc
chạm.
Phật
rất từ bi đáo để nên đã không ngại nói ra những cái lầm mê của chúng ta. Chúng
ta cứ bị ái ân cột trói mãi mãi không có ngày thoát khỏi! Cho nên thấy sắc đẹp
thì ta muốn ngắm nhìn và chiếm đoạt, tiếp theo là lời nói, tiếng cười, giọng
nói, nước mắt, quần áo, vật tặng và sự xúc chạm nhau êm ái, làm ta cứ mải mê
thẫn thờ trong luyến ái đó.
"Ngay cả khi mới chết, người nữ vẫn còn là lực
hấp dẫn cho người nam". Vì vậy mà gọi là nhẫn được sắc dục
là khó. Nhẫn được sắc dục thì con đường hiền Thánh mở ra, nên chúng ta phải
khép lại cánh cửa ái ân để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Như
chúng ta đã biết, tai hại của sắc dục có thể làm băng hoại nhân cách đạo đức
của con người khi chúng ta bị đam mê dính mắc vào nó. Ở đây, nhẫn được sắc dục
là chế ngự, thu thúc được lục căn, không cho chúng bị đắm nhiễm như mắt thấy
sắc đẹp thích thú muốn ngắm nhìn và chiếm đoạt, tai nghe tiếng nói của người nữ
sinh tâm thèm khát và luyến ái, mũi ngửi mùi thơm của nước hoa cảm thấy lòng
rạo rực xao xuyến, lưỡi nếm vị ngọt của tình ái, thân xúc chạm êm ấm nhẹ nhàng
và ý biết thọ nhận luyến tiếc
Một
vị thiền sư đã ngộ đạo nên nói: “Thấy sắc nghe tiếng như là hoa trồng trên đá”.
Thấy sắc đẹp nghe tiếng nói của người nữ mà trong lòng cảm thấy như trồng hoa
trên đá, như vậy thì đâu có bị dính mắc vào sắc dục. Hoa làm sao mà trồng trên
đá được, nếu không trồng được thì thấy sắc dục cũng vậy thôi, có gì mà phải bận
tâm.
Do
đó, nhẫn được sắc dục là một việc làm hy hữu mà ít ai trên đời này có thể làm
được trọn vẹn. Ngoại trừ những vị quyết chí tu hành để thoát khỏi kiếp luân hồi
này hay là các đại Bồ tát hoặc chư Phật mới vượt qua nỗi. Tuy nhiên, Phật Bồ
tát làm được thì chúng ta cũng sẽ làm được, ta có quyết chí, can đảm buông bỏ
những thói quen xấu hay không mà thôi và cố gắng làm những điều thiện lành tốt
đẹp.
7. Thấy tốt đẹp không
tham cầu là khó
Đẹp
là một trong các yếu tố của thẩm mỹ học. Đẹp theo quan niệm thông thường là
những cái thấy hợp nhãn, gây nhiều ấn tượng tốt cho người xem, người đọc. Căn
cứ theo quan điểm triết học Phật giáo, đẹp là những giá trị mặc ước, tùy thuộc
vào quan điểm của con người, của phong tục tập quán. Có những cái ở đây cho là
đẹp nhưng ở một nơi khác thì lại cho là xấu.
Thấy
tốt tức là thấy người đẹp, vật tốt, công việc tốt đẹp, nói chung tất cả những
cái thấy vừa lòng thích ý, phù hợp với sở cầu của mình. Ai thấy đẹp cũng mong
ước cái đẹp ấy sẽ là của mình, và ai cũng mong chiếm hữu nó. Chính vì ai cũng
ham thứ tốt đẹp, nên thứ tốt là đối tượng để tranh chấp, giành giật chém giết
lẫn nhau. Do mong cầu thứ tốt, nên khi gặp thứ cái gì xấu chúng ta sinh ra bất
mãn, bực tức, và tìm cách đấu tranh để loại bỏ nó, cho nên cuộc sống trở nên rối
rắm, và phiền não bất an.
Nhưng
nhìn chung, cái đẹp, nó có giá trị nhất định theo cái thấy của mọi người, cũng
là một bông hoa hồng mà có người cho là đẹp nhưng người khác lại cho là xấu. Và
căn cứ vào giá trị của nó thì cái đẹp vẫn là cái quyến rũ, hấp dẫn thôi thúc
con người muốn chiếm hữu nó. Nhìn vào một bông hoa đẹp, mặc dù hoa vô tình,
nhưng nó vẫn gây ấn tượng đam mê ở người ngắm. Bản thân của cái đẹp hiện hữu
không tội lỗi gì cả, là do con người nhận định quyết đoán. Nhưng nếu chúng ta
nhìn nó với cái nhìn đam mê yêu thích bởi lòng tham lam thì cái đẹp đó, trở
thành sợi dây ràng buộc sự giải thoát của chúng ta.
Người
thấy đẹp mà không ham cầu là người thấy rõ sự nguy hiểm của cái đẹp, và cái đẹp
đó cũng vô thường tạm bợ, nên họ không mong cầu cái tốt đẹp đó chỉ tùy duyên mà
thôi. Nhờ có trí tuệ quán chiếu nên chúng ta thấy sâu sắc về sự vật, bản chất
nó không trường tồn, nên ta mới có thể làm chủ được tâm lý mong cầu của mình.
Nhưng mấy ai có được trí tuệ để vượt thắng những cám dỗ thông thường. Thế nên
gọi là thấy đẹp, thấy tốt không ham cầu là khó.
Chúng
ta nhìn vạn sự vạn vật với một cái nhìn tuệ giác, biết nó là không thực thể, sự
có mặt của nó chỉ là nhân duyên tụ tán, chính vì bản chất của nó là vô thường,
vô ngã. Cái đẹp của nó chỉ tạm thời, không dài lâu nó không có một giá trị cố
định.
Để
chuyển hóa tâm thấy đẹp mà không tham cầu, chúng ta phải nhìn mọi hiện tượng sự
vật và con người đúng với bản chất của nó nên từ đó, người đối duyên xúc cảnh
thấy đẹp nhưng vẫn giữ được thái độ thản nhiên, không khởi ý tham cầu nó, chiếm
hữu nó, không biến nó thành vật sở hữu của ta. Ta biết nó có mặt mà không hiện
hữu, đẹp như không đẹp, nên ta không luyến ái chấp giữ do đó, không gây ra sự
đau khổ cho mình và người.
8. Bị sỉ nhục không
oán hờn là khó
Nhục
là những hành vi lăng mạ của người khác làm cho ta cảm thấy bức rứt khó chịu.
Nó phát xuất từ tâm lý ganh ghét hay tật đố bằng sự nóng giận do không kìm chế
được bản thân. Nhục, nếu thể hiện bằng lời nói, là những lời bôi nhọ xuyên tạc,
bằng cách nguyền rủa, chửi thề mắng nhiếc một cách căm thù tột độ làm cho người
bị lăng mạ đau khổ, xót xa như cắt đứt từng khúc ruột mình. Nếu thể hiện bằng
hành động của thân, có thể dùng tay chân đấm đá để gây thương tích cho đối
tượng. Nếu thể hiện bằng ý thức, là sự ngấm ngầm hãm hại người đó một cách
trắng trợn và công khai bất chấp mọi hậu quả của nó. Cả ba đều đem lại cho
người khác tâm lý lo âu, sợ sệt và khổ đau bởi trạng thái tức tối, giận hờn và
thù địch.
Đứng
trước hoàn cảnh bị người khác nhục mạ như vậy, người ta thường hay oán giận thù
hằn, đôi lúc phản kháng trở lại bằng cách trả đũa quyết liệt với những ngôn từ
không văn hóa tí nào hay nặng hơn là đánh đập hoặc giết hại.
Chỉ
có những ai đã thật sự tu tập chuyển hóa mới thấu hiểu được tác hại của nó, nên
không chống trả đối đầu lại mà dùng tâm từ để làm lắng dịu sự xung đột đó. Nếu
lấy hận thù diệt hận thù, thì hận thù càng thêm chồng chất. Chỉ lấy tình thương
mới chuyển hóa được hận thù. Bị vu oan huỷ nhục về một việc làm xấu nào đó, ta
cảm thấy bị chạm tự ái vì sĩ diện với mọi người, ta tức tối, ta hờn giận và cảm
thấy đau khổ vô cùng.
Ngày
xưa có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi già sức
yếu, bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc pháp khí trong
nhà thiền, vị cao Tăng này mới bày ra kế điệu hổ ly sơn mà tung tin bị mất trộm
tiền của Tam bảo, làm cho trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau. Một
hôm chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.”
Mọi
người hoảng hốt chạy theo tiếng la, một vị đệ tử lớn chạy vào, vị cao Tăng liền
thộp cổ áo mà nói rằng, bắt được tên trộm rồi. Chú đệ tử nói: “Dạ thưa thầy
không ạ, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm, con chạy vô để phụ
thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt không ai có thể chối cãi được,
chư huynh đệ pháp lữ trong chúng, ai cũng thấy rõ ràng thầy mình tay thộp cổ áo
sư huynh mà la ăn trộm, ăn trộm.
Cho
nên vị đệ tử lớn bị khai trừ ra khỏi chùa ngay liền tức khắc, không được giải
bày minh oan gì cả. Đuổi xong, thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác
không được chứa chấp thầy, vì cái tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa
nay được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, còn là người mô phạm
dạy dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay bị mang danh nghĩa là tên trộm, đích thân
bị thầy mình viết giấy khai trừ và tuyên bố trước mặt đại chúng. Chỉ trong
thoáng chốc bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh
chê coi thường vì tội ăn trộm.
Ai
nằm trong hoàn cảnh đó mới thật tội nghiệp cho vị sư huynh, đường đường cũng là
một vị tăng tướng dung mạo trang nghiêm, có chức sắc trong chùa mà giờ đây đành
chịu nuốt lệ đau thương ngậm ngùi cay đắng, trước một sự thật không thể ngờ.
Bị
ông thầy hủy nhục như vậy trước mặt đại chúng, bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay
bỗng phút chốc tan tành theo mây khói. Nhưng chú đệ tử lớn này không hề có một
chút buồn giận nào thể hiện ra nét mặt hoặc là tỏ thái độ oán ghét ông thầy.
Chú ta vẫn một lòng cung kính và tôn trọng, xin thầy mình hãy từ bi cho ngủ đỡ
ngoài cổng tam quan cũng được, để mỗi ngày còn được học hỏi và phụ giúp chúng
Tăng làm việc, nhưng ông thầy cũng không chịu mà nói rằng nếu ở đó thì phải
chịu, trả tiền ngủ nhờ.
Dù
bị thầy hủy nhục hành hạ làm khó dễ đủ điều nhưng chú ta vẫn một lòng tôn kính
thầy mà siêng năng tinh tấn tu hành. Thời gian như vậy kéo dài gần ba tháng chú
đệ tử vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc một điều gì.
Cuối
cùng vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó thầy chính thức tuyên
bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau
này khi ta viên tịch rồi, hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các ngươi”.
Nói xong ông thầy từ giã đại chúng, rồi an nhiên ra đi.
Trong
lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn thường
bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh an nhiên chứng minh cho đời sự
trong sạch của mình, bằng chất liệu của từ bi và vô ngã vị tha. Vị đệ tử đó nếu
không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, thì ông thầy làm sao biết đệ tử của
mình đã vượt qua tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm tin mà nương
tựa học hỏi tu hành. Nếu gặp thầy nào còn quá yếu, khi bị vu oan giá họa như
vậy, chắc có lẽ sẽ oán hận ông thầy của mình suốt cả đời.
Nhờ
đó, ông thầy biết rõ người đệ tử của mình qua được tám gió, được mất, khen chê,
danh thơm tiếng xấu và khổ vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí
chỉ là thử thách, cho nên họ vẫn bình thản an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật
trước mặt mọi người. Giả sử như lúc đó, chúng tôi đang ở trong hoàn cảnh này,
có lẽ tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình, rồi bỏ ra đi
không một lời từ giã.
Đức
Phật dạy: “Bị sĩ nhục không sân là khó”.
Ai chịu đựng được những hoàn cảnh trái ngang như vậy mà không sân giận hay tỏ
ra oán ghét thì coi như đã thành tựu đạo pháp.
9. Có thế lực không
cậy quyền là khó
Cái
khó được nêu ra ở đây thật là một vấn đề nan giải, đáng cho những nhà cầm cân
nẩy mực, những nhà lãnh đạo, cần phải nên suy nghĩ, nghiền ngẫm nhiều hơn.
Thông thường, những người có quyền cao chức trọng hay cậy thế ỷ quyền, ức hiếp
kẻ dưới bắt phải cống nạp hoặc chèn ép bằng nhiều hình thức.
Trong
đời sống xã hội, dòng văn học hiện thực phê phán ở nước ta đã viết nên những
trang lịch sử rõ nét thái độ lẫn hành động áp bức, bất công của những tên quan
lại cường hào bức hiếp dân lành từ xa xưa. Đó là hậu quả của chế độ phong kiến
với những quan niệm hết sức độc đoán, ta là trung tâm của vũ trụ, ta có quyền
sinh sát trong tay bằng sức mạnh của đấng bề trên. Nhưng góc độ nguy hại nhất
của sự cậy quyền, ỷ thế lại có mặt nhiều nhất ở những chế độ độc tài, phát xít.
Họ
là những con người cuồng tín, độc đoán không biết lắng nghe tiếng nói từ trái
tim của những người bị đàn áp, một cách bất công và vô tội vạ. Họ sống an nhiên
dẫm đạp trên sự đau khổ của nhiều người khác. Từ đó, họ càng kết thêm oán giận
thù hằn trong lòng những người vô tội. Những luật vua, phép nước hết sức phi
lý, bất công, nhưng đã một thời khiến những người dân trong nước, hay người con
trong gia đình, nghĩa là những kẻ thấp cổ bé miệng phải cắn răng chịu đựng
những chính sách khắc nghiệt, buộc mọi người phải cam chịu mà không dám ho he
gì cả.
Cho
nên, có thế lực mà không ỷ quyền cậy thế, không thị uy, tức bản thân ta đã kiến
tạo cho mình một nếp sống chính mạng, chính nghiệp, không gieo rắc ác nghiệp
cho ai hết. Và người như vậy là người hữu ích cho nhân quần xã hội, là người biết
hướng thiện, luôn làm lợi ích cho nhiều người. Được vậy, quả thật là đáng quý.
10. Đối cảnh tâm không
lay động là khó
Đối
cảnh tâm lay động là bước đầu để đến vô tâm, có nghĩa là không còn dính mắc,
đắm nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều hoặc hình sắc, sự
vật cho đến tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tác
duyên. Người thấy tiền bạc không tham đắm, dính mắc quả thật là điều khó vì
tiền bạc là phương tiện để nuôi sống bản thân và gia đình. Người đối với mọi
hình sắc, vừa thấy liền khởi niệm say mê, rồi tác ý ưa thích nghĩ tưởng hình
sắc, thế là lòng tham chìm đắm trong cảm thọ thấy đẹp xấu và dính mắc vào đó.
Nếu tâm dính mắc càng lớn mạnh thì tâm bồ đề bị lu mờ, do đó dấy khởi phiền não
làm tâm không an định.
Không
những đối với sắc, đắm mê sắc có những cái hại như thế, mà đuổi theo tiếng hay
êm ái dính mắc vào đó, đuổi theo hương vị thơm tho tham đắm vào đó, bám theo vị
ngon ngọt thích thú khen ngợi, thân xúc chạm thích êm ái nhẹ nhàng và ý tác
động vào đó, cũng có những cái hại tương tự như thế.
Người
thấy sắc không nhiễm sắc, tuy mắt thấy sắc mà tâm vẫn an trú trong chính niệm
nên không chạy theo cảm thọ lạc hay cảm thọ khổ. Đã không chạy theo cảm thọ thì
tâm không dính mắc nơi sắc. Thấy sắc như thế nào thì thọ nhận như thế ấy. Không
khởi tâm phân biệt thủ xả chấp trước, hằng ở trong chính niệm, tỉnh giác thì phiền
não trần lao khổ không dấy khởi. Một hôm Tôn giả Phú Lâu Na đến đảnh lễ đức
Phật, thưa: “Bạch Thế Tôn, con muốn đến một chỗ vắng vẻ
để tu. Xin Thế Tôn dạy cho con phương pháp tu đơn
giản dễ nhớ, để con đến đó tu hành chóng đạt được đạo”.
Phật
dạy: “Mắt thấy sắc không nhiễm
trước, không dính mắc thì thành tựu đạo pháp, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi,
lưỡi nếm vị, thân xúc chạm không nhiễm trước, không dính mắc thì thành tựu đạo
pháp. Ngược lại, nếu nhiễm trước, nếu dính mắc thì quên mình theo vật”.
Phật
dạy tu rất là đơn giản. Tại sao mắt thấy sắc nhiễm trước dính mắc thì đồng với
người thế gian? Mắt của chúng ta hiện thấy hình sắc, cái thấy đó có giống nhau
không? Nếu có sự quán chiếu vào bên trong thì thấy chỉ là thấy, sự vật như thế
nào thì thấy rõ như thế nấy, còn nếu có phân biệt đẹp xấu thì tâm dính mắc dấy
khởi.
Ví
dụ như có bốn người vào tiệm mua vải, có nhiều xấp vải cùng loại mà khác màu:
nào trắng, xanh, vàng, đỏ, đen, tím, lam, hồng... Khi chọn
hàng mua, kẻ thì chọn màu trắng, người thì chọn màu xanh, kẻ
thì chọn màu vàng, người thì chọn màu hồng mỗi người tùy theo sở thích của mình
mà chọn mỗi màu khác nhau. Người chọn màu trắng cho màu trắng đẹp, người chọn
màu xanh cho màu xanh đẹp, người chọn màu vàng cho màu vàng đẹp, người chọn màu
hồng cho màu hồng đẹp. Mỗi người có mỗi nhận định, sở thích khác nhau. Vậy màu
nào đẹp thật? Nếu ai cũng cho rằng màu mình thích là đẹp nhất, thì chắc chắn sẽ
có cãi lộn.
Như
vậy nếu thấy sắc bám víu vào đó thì sinh nhiễm trước, rồi bảo vệ cái thấy của
mình. Do bảo vệ cái thấy của mình, ai nói khác đi thì mình chống đối lại. Từ đó
sinh phiền não giận hờn, mà gây ra nhiều đau khổ cho nhau. Cho nên đối cảnh tâm
không lay động là khó, vì chúng ta còn cái thấy của phàm phu.
Cái
nghe cũng vậy, nhiều người cùng nghe một bản nhạc, người thì khen hay, kẻ thì
chê dở. Nếu hai người khen chê cùng tranh chấp thì sẽ cãi lộn nhau! Đến
cái ngửi, thông thường hương thơm thì mũi ai cũng ghi nhận thơm, mùi hôi thì
mũi ai cũng biết hôi. Tuy nhiên có cái người này khen thơm, người khác lại chê
hôi. Chẳng hạn như người chưa từng ăn sầu riêng thì chê sầu riêng hôi; còn
người quen ăn sầu riêng thì khen sầu riêng thơm. Thơm hay hôi tùy theo sở thích
của mỗi người, nó không cố định.
Kế
đến là lưỡi nếm vị, vị nếm có giống nhau không? Cùng ăn một món mà người khen
ngon kẻ chê dở. Chẳng hạn cô đầu bếp quen ăn mặn, nấu thức ăn cô nấu vừa
với khẩu vị của cô. Khi dọn cơm lên người khách xa ăn thấy mặn. Người nói mặn,
người nói vừa ăn, vậy ai đúng?
Bây
giờ tới thân xúc chạm. Thân xúc chạm cũng không giống nhau nữa. Ví dụ vào mùa
đông người có thân hình mập mạp và người có thân hình gầy yếu cùng ở chung một
phòng. Người có thân mập mạp cảm thấy vừa mát, còn người gầy cảm thấy lạnh lẽo.
Trong phòng có bao nhiêu cửa sổ người ốm đều đóng lại để giữ hơi ấm. Khi đóng
cửa thì người mập cảm thấy nóng nực khó chịu. Để chúng ta thấy rằng xúc chạm
cũng không giống nhau, cho nên tùy theo cơ địa của mỗi người mà sự xúc chạm cảm
nhận khác nhau.
Tóm
lại, đối duyên xúc cảnh tâm không lay động là khó đối với người chưa biết tu,
người có chút công phu dễ dàng làm chủ cảnh duyên, nhưng vẫn có những lúc bất
giác bị vọng tưởng làm cho tâm Bồ đề mờ tối.
11. Học rộng, nghiên
cứu nhiều là khó
Học
rộng, nghiên cứu nhiều là tìm hiểu, lãnh hội, mổ xẻ vấn đề cho đến nơi đến
chốn. Nó thuộc về văn huệ trong văn-tư-tu của nhà Phật. Một học sinh, sinh viên
muốn đỗ đạt cao phải siêng năng chăm chỉ, kiên trì bền bỉ học rồi ôn tới ôn lui
rồi dùng ý thức để xem xét việc học của mình nhờ vậy mới thành đạt trong tương
lai. Cũng vậy, người học đạo giác ngộ, giải thoát trên cầu thành Phật dưới cứu
độ chúng sinh, không thể lơ là trong việc học rộng nghiên cứu nhiều. Nó phải
được song hành với văn-tư-tu mới giúp cho chúng ta thành tựu viên mãn.
Học
là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn
năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở
bạn bè; tự học ở sách vở và thực tế cuộc sống.
Học
rộng nghiên cứu nhiều để nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân. Ví dụ như
một bác sĩ đem những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình đào tạo sáu,
bảy năm ở trường đại học để vận dụng vào việc chữa bệnh cho mọi người. Những
kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng đem kiến thức đã học để thiết kế và thi công nhiều
công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên, để phục vụ đời sống
con người.
Mục
đích cuối cùng của sự học rộng nghiên cứu nhiều là nhằm phục vụ cho mọi công
việc đạt hiệu quả cao hơn. Nếu học được lí thuyết dù cao siêu đến đâu chăng nữa
mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công
sức, tiền bạc vô ích mà thôi vì chẳng giúp gì cho ai.
Bởi
trong công việc cái người ta cần, người ta quan tâm hàng đầu là sản phẩm thành
quả lao động chứ không phải là hiểu biết trên lí thuyết, một khi không đạt chỉ
tiêu đó thì dẫu cho có học rộng nghiên cứu nhiều đến đâu thì cũng sẽ bằng thừa
vô ích. Như một học sinh học tập rất tốt, điểm môn công dân luôn cao, vậy mà
khi thấy một bà lão ăn xin té ngã bên đường, không những không giúp đỡ mà ngược
lại còn tỏ thái độ khinh thường ghê tởm bà ấy. Qua ví dụ trên đã phần nào cho
ta thấy những tác hại của việc học rộng nghiên cứu nhiều mà chẳng giúp một ai.
Ngược lại, nếu chúng ta đem sự hiểu biết của mình ra để giúp người cứu vật thì
lợi ích biết bao.
Là
học sinh trong thời gian học ở nhà trường, chúng ta cần phải chăm chỉ học tập
tốt nghiên cứu sâu rộng là một điều khó. Học bao gồm cả văn hóa, chữ nghĩa và
kinh nghiệm cuộc sống để nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt, và để có cơ
hội phục vụ gia đình và đóng góp thiết thực cho xã hội. Như vậy cũng đủ thấy sự
học rộng nghiên cứu nhiều quý giá và lợi ích đến chừng nào! Chính nhờ sự học
rộng nghiên cứu nhiều, người phật tử chân chính biết được những điều hay lẽ
phải và hiểu rõ chân lý cuộc đời. Biết được đâu là chính, đâu là tà, đâu là
phải, đâu là quấy, đâu là tốt, đâu là xấu và đâu là đúng, đâu là sai. Đâu là
con đường hướng thượng giúp ta đi suốt cuộc hành trình để thành tựu Phật pháp.
Học
rộng nghiên cứu nhiều nghiễm nhiên trở thành kim chỉ nam để làm hành trang trên
bước đường tu học của ta, nó còn là tấm bản đồ, là hành trang cần thiết cho mọi
lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải trau dồi kiến
thức, nâng cao trình độ của mình bằng cách học rộng nghe nhiều, hầu đem lại
những thành công tốt đẹp trong hiện tại và mai sau.
12. Trừ diệt tâm cống
cao ngã mạn là khó
Người
cống cao ngã mạn là người coi trọng bản ngã của mình lên trên hết. Nó là biểu
hiện của tâm hiếu thắng, kiêu ngạo, cống cao, thiếu nhã nhặn, thiếu khiêm tốn
và không chịu nhún nhường bất cứ một ai. Người ngã mạn thường song hành với các
tâm lý cố chấp, bảo thủ và độc đoán.
Cống
cao ngã mạn khinh người là con đẻ của sự chấp ngã thân này là thật ta và của
ta. Nghiệp dụng của nó là luôn coi trọng mình mà hay khinh khi miệt thị người
khác. Dù người đó thật sự hơn mình đủ về mọi mặt. Nhưng vì chấp ngã tự ái nặng
nề, nên họ lúc nào nào cũng thấy mình hay giỏi hơn thiên hạ nên dễ dàng coi
thường người khác.
Người
cống cao ngã mạn khi làm được một công việc nào đó thành công, thì họ lên mặt
hống hách có vẻ như ta đây là người tài ba lỗi lạc bậc nhất. Họ tự thấy mình là
người có công lao lớn, rồi khinh thường mạt sát kẻ khác cho nên dẫn đến nhiều
người không ưa thích. Đó là họ đang mắc phải chứng bệnh “công thần” khá nặng nề
mà không hay biết. Và từ đó, mọi người sẽ tìm cách xa lánh và thù hằn ghét bỏ
họ. Đó là hậu quả của lòng cống cao ngã mạn gây ra.
Như
chúng ta đã biết ngã mạn là một trong sáu món căn bản phiền não, đó là
tham-sân-si, mạn nghi và ác kiến. Nó có gốc rễ sâu dầy từ si mê chấp ngã
mà ra, không phải ai cũng có thể dễ dàng diệt trừ nó được. Muốn đoạn trừ nó,
chỉ có cách là chúng ta phải cố gắng ra sức nỗ lực tu hành trì buông xả ngay
nơi từng ý niệm khi vừa phát sinh mới có thể lần hồi chuyển hóa chúng được.
Điều chủ yếu là chúng ta phải hằng tỉnh giác trong từng phút giây, quán chiếu
sâu vào bản chất của nó, để thấy rằng tự tính của nó vốn là không có thực thể.
Nếu
chúng ta không đề cao cảnh giác, làm nô lệ cho nó sai khiến, thì hậu quả xảy ra
cũng rất là tai hại. Có chính niệm tỉnh giác, thì chúng ta mới nhận diện nó một
cách rõ ràng. Và như thế, thì nó không thể nào gây tác hại cho chúng ta được.
Đó là do ý chí phấn đấu nỗ lực, dụng công phu tu hành của mỗi người mà sự diệt
trừ nó nhanh hay chậm mà thôi.
Trong
kinh Phật đưa ra ba dạng tâm lý ngã mạn: “Ngã mạn tuổi trẻ, ngã mạn không bệnh và ngã
mạn sự sống”. Ngã mạn tuổi trẻ là thái độ chủ quan, lấn lướt
bảo thủ sai lầm. Ngã mạn không bệnh là không bệnh dễ sinh là ỷ cậy thân
thể. Ngã mạn sự sống là cậy sống lâu mà làm việc bất thiện về ba nghiệp thân,
miệng, ý. Cả ba loại ngã mạn này đều làm cho con người đắm nhiễm, sa đọa vào
các ác nghiệp. Vì ngã mạn là chấp thủ, là cống cao, là chấp nhất, nên người lìa
ngã mạn sẽ thoát ly mọi ràng buộc, hệ lụy.
Phật
dạy: “Này các Tỳ kheo, ai đoạn trừ tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho
không còn hiện hữu lại, người ấy là bậc thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh
nặng xuống, không còn bất cứ một hệ lụy nào. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn là việc
khó làm”.
13. Không khinh khi
người chưa học là khó
Điều
11, Phật dạy học rộng nghiên cứu nhiều là khó. Điều 12, Phật dạy, cần phải đoạn
trừ tâm cống cao ngã mạn là khó. Phối hợp hai điều này chúng ta thấy nếu học
rộng nghiên cứu nhiều mà có tâm cống cao ngã mạn thì sự học rộng nghiên cứu
nhiều ấy không được lợi ích bao nhiêu cho mọi người. Vì người ấy chỉ là một học
giả cao ngạo, chỉ thích phê phán, chỉ trích, bình phẩm người khác mà không xây
dựng đóng góp gì nhiều cho việc giáo dục cho mình và người.
Nếu
học rộng nghiên cứu nhiều mà không có tâm ngã mạn thì kiến thức đó sẽ được
truyền bá rộng rãi, làm lợi lạc cho nhiều người, xã hội thật sự tiến bộ. Qua
điều thứ 13 này, đức Phật dạy không khinh người sơ học quả là một điều khó. Lời
dạy này còn hàm ý nói rằng kẻ tài cao thường có nhược điểm “mục hạ vô nhân” nghĩa là dưới con
mắt của mình không có ai hơn và khinh khi người ít học. Một điểm nữa là gián
tiếp khuyên chúng ta càng học cao, càng khiêm cung thấp mình đối với mọi người
thì phẩm chất và giá trị của ta càng lớn.
Người
ta thường nói tri thức mà không có nhân cách phẩm chất đạo đức là nguy hiểm và
tác hại vô cùng, nhiều hơn những kẻ ác độc mà không có trình độ. Học lời Phật
dạy “không khinh người chưa học”,
ta thấy lòng từ bi thật rộng lớn bằng tình người trong cuộc sống của Phật được
thể hiện rõ nét trong mọi trường hợp.
Và
lời dạy này cũng có ý nghĩa với hạnh vô ngã vị tha, đề cao Phật tính bình đẳng
của Bồ tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa: Dù có bị chửi mắng, đánh đập
nhưng Ngài cũng không tỏ ra thái độ giận hờn, oán trách một ai. Mà còn nói: “Tôi
không dám khinh quý ngài, vì quý ngài đều sẽ thành Phật”.
14. Thực hành
tâm bình đẳng là khó
Bình đẳng, giải thích theo ngôn ngữ, thì "đẳng" là chỗ đứng và
"bình" là ngang nhau. Nói gộp lại bình đẳng là ngang nhau về vị trí,
vai trò, quyền lực, nghĩa vụ và thụ hưởng các quyền lợi khác trong xã hội. Bình
đẳng nam nữ là nền tảng văn hóa thể hiện nét đẹp của con người trong gia đình
và xã hội. Nam nữ bình đẳng giúp cho gia đình an vui hạnh phúc và góp phần làm
cho xã hội giàu mạnh, văn minh.
Vai
trò của phụ nữ được phát huy bình đẳng trong gia đình và xã hội, mang một ý
nghĩa lớn đối với truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Nhờ bình đẳng
nên trong gia đình, vợ chồng thương yêu, tôn trọng lẫn nhau thì con cái mới
được chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm, hạnh phúc, luôn luôn là điểm
tựa cho con người vượt qua mọi chướng ngại, khó khăn trong cuộc sống. Dù tư
tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ đã dần mất đi, nhưng một nghịch lý vẫn
đang tồn tại là việc nội trợ, nuôi dưỡng con cái, chăm sóc các thành viên trong
gia đình vẫn được coi là công việc của phụ nữ.
Tuy
nhiên trên thực tế, thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường nhiều
hơn nam giới, dù pháp luật quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với
nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ
mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ, nhưng trên thực tế nam giới vẫn
được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người
đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên
trong nhà thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ.
Để
chấm dứt tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình, điều quan trọng là chúng
ta phải biết nâng cao chất lượng giáo dục, tuyên truyền rộng rãi không chỉ với
phụ nữ mà còn với nam giới. Công tác giáo dục về bình đẳng nam nữ đối với các
đối tượng thanh thiếu niên được thực hiện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, giúp các em có sự hiểu biết, ý thức và trách nhiệm, trong việc xây dựng
cuộc sống gia đình sau này.
Bên
cạnh đó, việc thực hiện bình đẳng nam nữ trong gia đình cũng nên được xây dựng
thành một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu, để mọi người cùng được học
hỏi lẫn nhau và được công nhận là gia đình văn hóa. Công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức về bình đẳng nam nữ nhằm loại bỏ tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”,
từng bước thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ trong lao động, sản xuất và các
hoạt động khác trong xã hội.
Bình
đẳng là biểu hiện văn hóa trong đời sống con người, có bình đẳng trong gia đình
mới thực sự có bình đẳng trong xã hội. Hạnh phúc bao giờ cũng là tài sản quý
giá nhất trong gia đình, mà mỗi thành viên luôn ước mơ và mong muốn để sống đời
an vui hạnh phúc. Bình đẳng trong Phật giáo vừa gắn liền với lịch sử thế giới là
xóa bỏ giai cấp, phủ nhận mọi kỳ thị, phân chia, phân biệt giữa con người với
con người và giữa con người với con vật.
Theo
Phật giáo, mọi con người phải có giá trị ngang nhau khi người ta hoàn thiện đạo
đức. Chỉ có đạo đức mới phân định chính xác giá trị nhân phẩm con người. Giai
cấp, địa vị, sự sang trọng, quyền uy, thế lực… tất cả những thứ này đức Phật
đều phủ nhận để đề cao bình đẳng. Bình đẳng trong Phật giáo là nam nữ bình đẳng
theo tinh thần trách nhiệm của một con người. Trong kinh Pháp Hoa Long Nữ 8
tuổi cũng thành Phật. Và cụ thể nhất là mọi người nữ đều được gia nhập tăng
đoàn trở thành các tỳ kheo ni với những quyền lợi ngang nhau như các tỳ kheo
tăng trong lịch sử Phật giáo xưa và nay.
Tính
bình đẳng của Phật giáo ra đời nhằm chuyển hóa mọi định kiến, kỳ thị lâu đời
của những quan niệm cổ hủ từ xa xưa. Giá trị bình đẳng cao nhất trong Phật giáo
là Phật tính, là tính biết sáng suốt của mọi người, ai cũng có khả năng quay
lại chính mình để trở thành con người có trí tuệ và từ bi viên mãn. Phật tính
không phải chỉ có trong loài người mà có cả trong các loài có tình thức và tất
cả chúng sinh đều tiềm tàng một năng lực sáng suốt là tính biết của mình, đi
ngược lại các tập tục truyền thống từ xa xưa. Mọi người đều bình đẳng với nhau
trong mọi phương diện, không có kẻ ban phước giáng họa hay quan niệm chồng chúa
- vợ tôi.
Nhờ
sự ra đời của Phật giáo đã giúp cho mọi người biết tôn trọng bình đẳng với nhau
về mọi phương diện. Chỉ với những quan điểm bình đẳng trên, cũng đủ chứng minh
sự siêu việt của Phật giáo trong việc đề cao nhân bản và đem lại cho con người
sự bình đẳng tuyệt đối. Do đó, thực hành bình đẳng là một điều vô cùng khó,
nhất là đối với những người có quyền lực địa vị cao trong xã hội, những gia
đình nặng về gia giáo, phong kiến và nặng nhất là sự chấp ngã của con người.
15. Chẳng nói
phải trái là khó
Trong
xã hội bất kỳ một cơ quan đoàn thể nào kể cả những người tu trong chùa như
chúng tôi vẫn nói chuyện phải trái. Bởi vì hoàn cảnh cuộc sống suy nghĩ và làm
việc không ai giống ai dù là anh em sinh đôi. Sống trên đời, chúng ta khó có
thể làm vừa lòng hết tất cả mọi người được. Bởi có thân này nên chúng ta phải
làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình. Chính vì vậy mà có sự vận động và
va chạm, tất nhiên sẽ không tránh khỏi những lời phải quấy tốt xấu trong cuộc
sống.
Bị
người ta nói xấu, nói không đúng sự thật về mình, mình sẽ xử trí ra sao đây?
Trước tiên, mình phải xem xét lời người ta nói có đúng về mình không, nếu đúng
thì mình nên cám ơn họ, nếu sai thì ta sẽ dùng lời nói nhẹ nhàng để giải thích
cho người hiểu. Sự việc sẽ càng phức tạp khi ta lời qua tiếng lại, để tranh
chấp việc đúng sai phải trái. Dù ta đúng hay sai, nếu cố biện minh, cố làm sáng
tỏ vấn đề bằng tranh luận hơn thua chỉ càng làm mọi chuyện trở nên rắc rối và
trầm trọng hơn.
Ta
có thể giải thích và nói lại chuyện này sau, nếu thấy cần thiết khi mọi thứ đã
dịu lại. Nếu thấy không đáng để quan tâm nữa thì ta cứ bỏ qua một bên. Nếu ta
chỉ mang trong lòng sự ấm ức và bực bội, chỉ vì người khác không hiểu đúng, nói
đúng về mình. Ngày xưa, trong lúc rảnh rỗi một ông vua mới hỏi chuyện với vị
quan cận thần của mình: “Trẫm thấy khanh nhân cách và phẩm chất luôn thể hiện
sự hài hòa đối với mọi người, tại sao lại có nhiều tiếng thị phi chê ghét khanh
như thế?”
Vị
quan trả lời: “Tâu bệ hạ. Mùa mưa thì người bán dù luôn vui mừng, nhưng
người phơi bánh tráng lại buồn khổ. Trời đất kia vốn vô tư không thiên vị, mà
cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian trách hận trong ghét thương. Còn hạ thần
đâu phải một người vẹn toàn thì làm sao tránh khỏi tiếng chê bai, chỉ trích.
Cho nên ngu thần trộm nghĩ, đối với tiếng thị phi trong thế gian chúng ta hãy
nên bình tâm suy xét, đừng nên vội tin nghe một điều gì. Vua tin nghe lời thị
phi phải quấy không đúng sự thật thì quan thần bị hại. Cha mẹ tin nghe lời thị
phi phải trái thì con cái bị ruồng bỏ. Vợ chồng tin nghe lời thị phi phải quấy
thì gia đình ly tán. Tiếng thị phi phải trái của thế gian là việc bình thường
trong thế gian này, mọi người hãy nên suy nghĩ, nghiệm xét”.
Qua
câu chuyện trên, chúng ta hãy nghe ông vua Thiền sư Trần Thái Tông nói về thị phi
phải trái như sau:
"Phải trái
rụng theo hoa buổi sớm.
Danh lợi lạnh
với trận mưa đêm.
Hoa tàn mưa
tạnh non im vắng.
Xuân cỗi còn
nguyên một tiếng chim".
Trong
năm giới của người tại gia, giới không nói dối hại người là giới có nội dung
cấm người phật tử nói lời thị phi phải quấy. Thị phi, đôi lúc ở một vài trường
hợp cũng chính là lời nói đòn xóc hai đầu, đến người này ta nói xấu người kia,
đến ngươi kia ta nói xấu người nọ. Tác hại của nó là làm cho hai bên hiểu lầm
nhau mà gây ra ân oán hận thù và làm yếu đi sức mạnh của một cá nhân hay một
tập thể nào đó. Và khi đứng trước những hiện tượng thị phi hay chính mình phải
quấy với người khác làm cho tình nghĩa của bạn bè người thân bị rạn nứt sứt mẻ
do hiểu lầm nhau. Đối với Phật giáo, thị phi được cấm chỉ ở giới không nói dối
dóc láo hư vọng và giới ly gián.
Người
phật tử chân chính không bao giờ sử dụng ngôn ngữ mang tính cách hại người,
không gieo rắc đau khổ đến với bất cứ một ai, mà chỉ nên nói những lời có ích,
chân thật mang lại an vui hạnh phúc cho mọi người. Như vậy, trong cuộc sống,
không thị phi là hoàn thiện nhân cách sống của người phật tử. Vì thế, không nói
lời thị phi phải quấy là một điều khó mà chúng ta ai cũng phải hoàn thiện chính
mình bằng thân, miệng, ý.
Gặp được thiện tri
thức là khó
Sinh
ta ra là cha mẹ, làm thành cho ta là bạn bè. Con người nên hay hư, phần lớn đều
ảnh hưởng bạn bè. Thiện tri thức là bạn lành, bạn tốt, những người bạn thường
xuyên giúp đỡ cho ta hay làm các điều lành mà tránh xa điều xấu ác, chỉ cho ta
biết cách thăng hoa đạo đức, tâm linh để sống đời hạnh phúc. Khi có những người
bạn như vậy, cuộc sống của chúng ta sẽ ổn định, tương lai sẽ tốt đẹp theo thời
gian. Người bạn thiện tri thức thì lúc nào họ cũng mong cho ta được bình yên
hạnh phúc và giúp ta thành công trên đường đời.
Nếu
ta không may gặp phải bạn bè xấu thì gọi là ác tri thức. Loại bạn bè này thường
đến với ta, khi ta ước muốn ham thích những thú vui thấp kém; họ hay xúi giục,
khích lệ đồng tình với ta vào con đường thấp kém đó. Nếu ta là người giàu có,
đủ khả năng vui chơi hoan lạc thì bạn bè càng đông hơn, chính vì vậy cuộc đời
ta sẽ lún sâu vào tội lỗi mà không hay.
Thiện
tri thức là những người bạn lành, bạn tốt giúp ta nâng cao trình độ hiểu biết,
biết cách tiếp cận những lời dạy chân lý của đức Phật. Ngoài ra, thiện tri thức
còn được hiểu là những pháp môn, giáo lý, kinh điển của đức Phật giúp ta thăng
hoa nhân cách phẩm chất và nếp sống đạo đức. Người thiện tri thức còn có nghĩa
là vị thầy dẫn dắt ta trên con đường giác ngộ, giải thoát. Gặp được minh sư
chân chính thì mục đích của ta mới dễ thành tựu. Nếu người dẫn dắt ta là tà đạo
thì chắc chắn ta sẽ đi theo con đường tối tăm nguy hiểm. Ở đời, thầy lành bạn
tốt dễ gì gặp, và khi gặp làm sao phân biệt được.
Làm
sao chúng ta có thể biết người đó là thiện hữu tri thức, phương cách duy nhất
là thân cận tiếp xúc lâu ngày với người đó, sống với người đó trong những hoàn
cảnh khó khăn, nghe người đó nói năng luận bàn, ta mới có thể thấy được đức
hạnh, trí tuệ và sự chứng đắc của người ấy. Vì vậy, chúng ta phải sáng suốt
chọn thầy lành bạn tốt thì quá trình tu tập của ta mới có thể thành tựu viên
mãn trong tương lai.
17. Học đạo, kiến tánh
là khó
Quan
niệm về cái khó ở điều 17 này bao gồm hai phạm trù: học đạo, kiến tánh là khó.
Học đạo là khó vì phải đi ngược lại dòng đời, người đời tham thì ta không tham,
người đời dính mắc luyến ái vào gia đình vợ con còn ta thì phải vượt lên trên
đời sống gia đình ràng buộc đó.
Dòng
Thiền Bắc tông được truyền từ Tổ Ca Diếp và sơ tổ Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma đến Tổ
Huệ Năng cũng là tổ cuối cùng của dòng thiền Ấn Hoa với chủ trương “bất lập văn
tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
Yếu
chỉ của lập trường Thiền tông vốn đi thẳng vào tâm để tu hành, chuyển hóa các
vọng niệm đã ăn sâu vào tàng thức của chúng ta. Cho nên trước khi tu pháp này
nó đòi hỏi mỗi hành giả phải học rộng hiểu nhiều, để biết rõ lời Phật dạy mà
đạt tới đỉnh cao giác ngộ, giải thoát và thành Phật.
Do
đó, bất lập văn tự là không dính mắc vào văn tự chữ nghĩa chấp vào từng chữ
trong kinh, cho nên có câu: “Y kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời,
lìa kinh một chữ tức đồng ma nói”. Mặc dù, trên chủ trương giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, nhưng để kiến tánh, mỗi thiền sinh vẫn dùng
phương tiện thiện xảo để thể nhập. Một trong các cửa ngõ phương tiện trước tiên
đó là học đạo. Học đạo có nghĩa là xem nghe lời Phật tổ dạy, và dùng trí tuệ
Bát Nhã để thể nhập tự tính bằng cách tu tâm.
Thiền
sư Sùng Tín, con nhà bán bánh bao gần chùa, vì tín tâm Tam bảo nên mỗi ngày ông
đem mười cái vào chùa cúng dường, mỗi lần cúng dường như vậy, Thiền sư Đạo Ngộ
cho lại ông một cái để đem về, mà không nói lý do. Ông ta tức quá mới hỏi thiền
sư sao lại như thế, nhưng thiền sư chỉ mỉm cười và nói rằng: “Ta cho lại ông có
lỗi gì!”
Một
hôm ông quyết tâm hỏi cho ra lẽ thật. Thiền sư bảo: “Ông xuất gia đi ta sẽ chỉ
tâm yếu cho”. Sùng Tín nghe lời xin xuất gia, trải qua ba năm như thế mà ông
thầy chẳng thèm chỉ dạy điều gì! Làm cho Sùng Tín tức tối, bực bội quá trong
lòng cảm thấy bất an nghĩ rằng ông thầy lừa dối mình.
Thiền
sư để cho tâm nghi vấn của ông lên đến tột độ, một hôm chịu hết nổi ông bèn hỏi
sư phụ hứa chỉ tâm yếu cho con mà mấy năm nay không thèm nói một lời.
Đạo
Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta đã từng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi rồi”.
“Hòa
thượng chỉ dạy hồi nào?”
“Ngươi
dâng trà lên ta vì ngươi mà tiếp, ngươi đem cơm đến ta vì ngươi mà nhận, ngươi
xá lui ta vì ngươi gật đầu. Ta đã chỉ cho ngươi tâm yếu mỗi ngày tại ngươi
chẳng chịu tiếp nhận mà thôi”.
Ngay
khi đó, sư cúi đầu lặng thinh giây lâu.
Đạo
Ngộ bảo: “Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai”.
Ngay
câu nói này sư nhận ra tâm yếu.
Tâm
yếu trong nhà thiền chỉ dạy rất đơn giản, ngay nơi mặc áo, ăn cơm, đi tiểu, đi
đại là tâm yếu rồi đó! Chẳng phải tìm cầu đâu xa. Bây giờ chúng tôi hỏi quý vị
nè, ai biết mặc áo, ai biết ăn cơm, ai biết đi tiểu, ai biết đi đại. Cái này có
ai làm thế cho ta được hay không? Ngoài trừ ta bị liệt và mất tự chủ.
Chiêu
thuật của thiền sư là dồn người đệ tử vào một nghi vấn và thắc mắc suốt mấy năm
liền, từ khi còn làm cư sĩ cho đến khi xuất gia. Nếu người không có ý chí thì
bỏ mặc nhưng vì thiết tha học đạo, cho nên cuối cùng nhận ra đạo lý chân thật
không ngoài nơi thân này. Chính vì vậy học đạo, kiến tánh là khó.
18. Tùy duyên hóa độ
là khó
Một
trong những công tác hàng đầu của tu sĩ Phật giáo là: Đem lời dạy của Phật và sự tu học của mình để
truyền đạt cho mọi người cùng tham khảo học hiểu và tu học theo. Nhưng để đạt
được mục tiêu giáo dục này, đòi hỏi người truyền bá phải biết vận dụng nhuần
nhuyễn hợp lý, hợp tình, biết được căn cơ của mọi người. Thiếu
đi yếu tố quyết định này, sự hoằng pháp có thể dẫn đến thất bại.
Tùy
theo điều kiện nhân duyên, căn cơ trình độ của mỗi người mà chúng ta có thể
giúp đỡ để họ chuyển hóa phiền não tham sân si, thành an vui hạnh phúc. Ðiều
này không phải dễ, thường thì chúng ta hay áp đặt lên quan điểm và trình độ của
kẻ khác, bằng sự hiểu biết của mình, mà quên đi mục đích chính là giúp người
qua biển khổ sông mê, chứ không phải phổ biến quan niệm hay truyền đạt lối tu
của mình.
Có
đủ trí tuệ và khả năng để tùy duyên hóa độ chúng sinh là rất khó. Bồ tát Quán
Thế Âm có 32 tướng ứng hóa thân để độ chúng sinh bằng tứ nhiếp pháp: Bố thí, ái
ngữ, lợi hành, đồng sự làm phương tiện hướng chúng sinh quay về đường thiện
bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Tùy duyên mà vẫn giữ được mục đích và
bản chất của nó ta thường gọi là tùy duyên mà không bị biến đổi. Có người nội
lực còn yếu kém, nên tùy duyên quá đành phải chịu cho duyên trần kéo lôi làm
đánh mất bản thân mình, mà dính mắc vào đời sống thế tục.
Ngay
cả đến đức Phật, khi thuyết pháp, Ngài cũng vận dụng phương tiện thiện xảo để
tùy duyên tùy căn cơ mọi người mà tìm cách độ họ. Các vị thiền sư, đạo sư, cao
tăng sau này cũng nhờ tùy duyên hóa độ mà làm rạng rỡ truyền thống tốt đẹp của
Phật giáo. Do đó, tùy duyên hóa độ là cần thiết, là khó thực hiện, là nền tảng
của sự hoằng pháp, giáo dục. Cho nên tùy duyên hóa độ là khó.
19. Thấy cảnh vô tâm
là khó
Nội
dung của điều khó này cũng tương tự với nội dung ở điều khó thứ
10. Nhưng vô tâm ở đây được đề cập với mức độ cao hơn, sâu hơn, khó thực
hiện hơn, có nghĩa là hoàn toàn không dính mắc vào mọi sự vật, dù kiếm bén kề
sát cổ ta vẫn không sợ hãi. Vô tâm là hoàn toàn an nhiên tự tại, giải thoát.
Không động tâm là bước đầu để đạt đến vô tâm. Khi ta còn động tâm thì không thể
nào thành tựu được vô tâm hoàn toàn trước cảnh trần.
Người
tu đạo giác ngộ, giải thoát phải từng bước huấn luyện cho tâm mình không dao
động trước mỗi hoàn cảnh. Mọi sự tiếp xúc ta phải tập làm chủ trực tiếp từ sáu
căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Vua
Trần Nhân Tông lên ngôi năm hai 20 tuổi, xuất gia năm 41 tuổi, thị tịch năm 51
tuổi. Ngài là vua lãnh đạo đất nước thừa hưởng cung vàng điện ngọc, thụ hưởng
dục lạc thoải mái. Hai phen cầm quân đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ yên nước nhà
qua cơn loạn lạc. Khi đi xuất gia Ngài tu khổ hạnh hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà,
tích cực truyền bá chính pháp, phá bỏ tập tục mê tín khuyến khích mọi người giữ
gìn năm giới, tu mười điều lành, Ngài hoằng hóa độ sinh không biết mệt mỏi,
nhàm chán.
Điểm
đặc biệt của Ngài là khi làm vua thì hy sinh quên mình giữ nước, chống giặc
ngoại xâm hết mực thương yêu lo lắng cho dân chúng an cư lạc nghiệp. Khi xuất
gia thì quyết chí tu hành cho sáng đạo. Đến khi hoằng pháp lợi sinh thì hướng
dẫn cho mọi người bỏ ác làm lành và cùng nhau sống yêu thương bằng trái tim
hiểu biết. Ngài là tấm gương sáng cho nhân loại để nhắc nhở cho chúng ta là
không có gì không thể làm được, chỉ có ta có quyết chí vươn lên vượt qua lầm
lỗi hay không mà thôi! Chính vì thái độ dứt khoát rõ ràng trong từng giai đoạn,
nhờ vậy mà Ngài tự tại làm chủ bản thân sống đời an nhiên, giải thoát. Chúng ta
hãy lắng nghe bài kệ của Ngài:
"Ở đời vui đạo
hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ
liền
Trong nhà báu sẵn thôi
kiếm tìm
Đối cảnh không tâm,
chớ hỏi thiền".
Sống
giữa cuộc đời trần tục với muôn vàn cám dỗ nào lợi danh, sắc đẹp, tiền tài, ăn
ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều nhưng khi sáng đạo thì mọi thứ chỉ là ảo ảnh, không
thật có. Duyên cảnh biến thiên tình đời đổi trắng thay đen, nhưng ta vẫn thấy
an vui hạnh phúc, như khi đói đến thì ăn, khi mệt đến thì nghỉ ngơi không toan
tính nghĩ suy mà tự làm khổ mình.
Người
đời không biết cứ dong duổi tìm cầu bên ngoài mà không biết ngay nơi thân này
có tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn tai,
mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Cái khéo của chúng ta là khi đối duyên xúc
cảnh tâm ta vẫn an nhiên bất động, vậy thì còn tìm hỏi thiền ở đâu nữa. Thật
đơn giản nhẹ nhàng chớ tìm cầu đâu xa.
Ngài
chỉ tu trong một thời gian ngắn chỉ khoảng mười năm thôi, nhưng mọi người đều
tôn xưng Ngài là ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông
là người kế thừa con đường của Phật đã vạch sẵn, nên không phải mất công tìm
kiếm đâu xa, do đó mà công phu đơn giản nhẹ nhàng, chỉ nhìn thấy từng tâm niệm
sinh diệt mà không cần phải đối trị quán chiếu. Cho nên đối cảnh vô tâm là một
việc khó làm vì nó là điểm đích sau cùng khi thành tựu đạo pháp.
Như
thế, chúng ta cũng biết rằng từ không dính mắc, động tâm sẽ dẫn đến vô tâm. Vô
tâm là không còn dính mắc ta người và hoàn cảnh, là thể nhập như như bất động,
là tự tại, giải thoát và thường biết rõ ràng.
20. Khéo biết phương
tiện là khó
Quan
niệm về cái khó cuối cùng này cũng ít nhiều liên quan đến nội dung
điều thứ 18 tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Điểm giống nhau giữa hai
điều là cả hai cùng đề cập đến tính phương tiện thiện xảo, trong vấn đề giáo
hóa độ sinh hướng dẫn cho mọi người là quan trọng cấp thiết hàng đầu. Điểm khác
nhau ở hai điều là điều 20 này là điều kiện, là môi giới, là chất xúc tác để
thành tựu điều 18. Có phương tiện thiện xảo thì chúng ta mới có thể tùy duyên
hóa độ.
Vận
dụng nhuần nhuyễn phương tiện khế lý khế cơ thì tùy duyên hóa độ sẽ hoàn bị chu
tất. Phương tiện và tùy duyên hóa độ là hai phần được liên kết với nhau rất
chặt chẽ, không thể thiếu trong công tác giáo dục, tùy duyên hóa độ là tùy bệnh
cho thuốc ai cần thuốc nào thì ta cho thuốc đó. Còn phương tiện thì người hoằng
pháp phải biết vận dụng từ thấp đến cao, thay gì giáo lý của đức Phật mục đích
là giác ngộ, giải thoát nhưng vì mọi người chưa đủ sức, cho nên Phật phải dẫn
dụ từ từ nhằm giúp cho chúng ta từng bước tỉnh thức. Phật dạy có ba hạng người
không khéo biết phương tiện thù thắng:
Hạng
thứ nhất, đã không thực chứng trong tu hành lại còn hướng dẫn truyền đạt giáo
lý một cách tối nghĩa, khó hiểu, làm cho người nghe hiểu sai ý nghĩa nội dung,
cho nên họ thực hành sai.
Hạng
thứ hai, tuy không thực chứng, nhưng lại hướng dẫn truyền đạt rõ ràng chính xác
cho người nghe dễ tiếp thu. Do sự nói làm không tương ưng làm cho người nghe
cũng dễ bất mãn mà sinh ra thái độ sống không tốt.
Hạng
thứ ba, tuy có quá trình thực tu thực chứng, nhưng truyền đạt hướng dẫn kém,
không linh động uyển chuyển, làm cho người nghe khó nắm bắt, cho nên thực hành
không có kết quả lợi ích thiết thực.
Khi
xưa, Ngài A Nan chỉ dạy hai người đệ tử tu hành, một người giữ nghĩa địa A Nan
dạy quán sổ tức, một người làm lò rèn Ngài chỉ dạy quán thân bất tịnh. Hai
người tu hoài mà không thấy tiến, Ngài A Nan thỉnh Phật chỉ dạy lại. Ông dạy
người như vậy là sai rồi, người giữ nghĩa địa thì chỉ họ quán thân bất tịnh vì
quanh năm suốt tháng họ luôn tiếp xúc với xác chết. Còn người làm lò rèn tối
ngày thổi lửa bì bịch, ông dạy quán hơi thở để họ được định tâm trở lại.
Do
đó, công tác hoằng pháp hay giáo dục vô cùng hệ trọng trong hiện tại và mai
sau. Nó có thể dẫn đến ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho rất nhiều thế hệ. Truyền đạt
một quan điểm lệch lạc, mê tín, cuồng tín, tà kiến, làm ảnh hưởng xấu đến nếp
sống văn hóa giáo dục, đạo đức tâm linh, sẽ đem lại bất hạnh cho nhiều người.
Và
khi ta truyền đạt đúng với chính pháp, đúng với chân lý cuộc đời thì lợi ích
của nó thật lớn lao, nghĩa là đem lại an lạc hạnh phúc cho nhiều người. Chính
vì vậy, những người làm công tác tuyên truyền văn hóa, giáo dục, phải ý thức
rằng việc làm của ta phải có lợi ích cho nhiều người. Cho nên khéo biết phương
tiện là khó.
Thích
Đạt Ma Phổ Giác
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét