"
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do "
CHUNG
QUANH VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ ĐÁNH GIÁ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Bốn
mươi lăm năm đã qua kể từ ngày Hồ Chí Minh qua đời, lịch sử dân tộc và nhân
loại đã trải qua bao biến thiên dữ dội, sự kiện lớn nhất là sự sụp đổ nhanh
chóng, bất ngờ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từng tồn tại hơn 70 năm –
như một cuộc động đất chính trị, có thể sánh ngang với sự sụp đổ của đế chế La
Mã hồi đầu công nguyên.
Việt
Nam giành được thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp thống nhất đất nước với cái giá
máu xương phải trả được coi là chưa từng có trong lịch sử kháng chiến của dân
tộc. Nhưng thắng lợi quá lớn đã làm cho những người chiến thắng say sưa, sinh
ra chủ quan, kiêu ngạo; thiếu tinh thần khoan dung của người thắng cuộc để chủ
động thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc ; ta cũng đã không biết tận dụng sức
mạnh của niềm vui, niềm tự hào chiến thắng, sự yêu mến, cảm phục và sẵn sàng
viện trợ của bạn bè quốc tế để tranh thủ đưa cả nước chuyển sang một thời kỳ
mới: chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại Tổ quốc, sớm đi tới
phồn vinh, thịnh vượng.
Trái lại, cũng do chủ quan, hẹp hòi, tầm nhìn thiển cận, chúng ta đã liên tiếp
mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại.
Tiếng súng vừa mới im được vài năm, ta đã phải đương đầu với hai cuộc chiến
tranh Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc; việc đem quân vào Campuchia,
rồi sa lầy ở đó hơn 10 năm; vụ ‘nạn kiều” và hàng triệu người Việt ồ ạt bỏ nước
ra đi,…dẫn đến Việt Nam bị thế giới bao vây, cấm vận, làm cho nền kinh tế đất
nước và đời sống của nhân dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa từng thấy. Gỡ ra
được cũng đã bị chậm đi mất vài chục năm.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với những cơ
chế bất cập do “lỗi hệ thống” gây ra, đã tạo điều kiện cho các “nhóm lợi ích”
trong bộ máy công quyền lợi dụng thao túng, nền kinh tế đất nước ngày càng suy
thoái, tụt hậu, thua kém cả Lào và Campuchia. Nạn tham nhũng lan tràn từ trên
xuống dưới, quan to ăn to, quan nhỏ ăn nhỏ, đám thư lại thả sức hạch sách,
nhũng nhiễu dân đen, không chuẩn mực đạo đức và pháp lý nào tiết chế nổi. Dân
oan khiếu kiện mất đất, mất nhà,…diễn ra hàng ngày ở huyện, ở tỉnh, không ít
đoàn kéo lên ăn chực, nằm chờ ở cổng phủ Chủ tịch,…Tiếng kêu than vang vọng đến
cả trời xanh, nhưng không vụ việc nào được giải quyết triệt để. Trí thức lên
tiếng góp ý, phê phán, đấu tranh, chính quyền đã không chiụ nghe, lại còn bị đe
dọa, bắt bớ. Chưa bao giờ phản ứng của người dân lại trở nên công khai,
gay gắt, quyết liệt như hiện nay. Phải chăng đó là những nhân tố đang tạo nên
những “tổ mối hổng” có thể dẫn đến “sụt toang đê cũ”?
Điều gì đã gây ra bi kịch này, nguyên nhân sâu xa là từ đâu? Ai sẽ phải chịu
trách nhiệm trước lịch sử về sự trì trệ, suy thoái nghiêm trọng của đất nước và
nguy cơ sụp đổ của chế độ?…Trả lời những câu hỏi đó không tránh khỏi ít nhiều
có liên quan đến vấn đề đánh giá vai
trò và trách nhiệm cá nhân của Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh lòng dân ly tán hiện nay, sự đánh giá Hồ Chí Minh đang diễn ra
theo hai chiều đối nghịch, vậy cần có nhận thức và đánh giá như thế nào để đạt
tới sự chính xác, công bằng, khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử?
Công lao to lớn của Cụ Hồ đối với sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc là
điều không ai có thể phủ nhận. Từ đưa Yêu
sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles đến Tuyên ngôn Độc lập,
rồi chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu,…chặng đường đấu tranh
nửa thế kỷ ấy gắn liền với tên tuổi huyền thoại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, Cụ vẫn được coi là người Cha tinh thần đã khai sinh ra chế độ
này, vậy Cụ có thể có những liên đới trách nhiệm gì với thực trạng đáng
buồn hiện nay không?
Những
người phê phán Hồ Chí Minh thường cho rằng mọi tai họa mà dân tộc và đất nước
phải gánh chịu hơn nửa thế kỷ qua, phải được xét từ gốc, từ nhân tố khởi
nguyên: ấy là do Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam! Sự
thật là như thế nào rất cần được làm rõ.
Đánh
giá vai trò của một học thuyết hay một vĩ nhân cần đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể.
Lịch sử không đứng yên, mà luôn luôn vận động, biến đổi. Chủ nghĩa tư bản ở
thời kỳ hoang dã, đi xâm chiếm thuộc địa, thì từ đầu đến chân nó đều thấm bùn
và máu; khác với chủ nghĩa tư bản hiện đại, biết phát huy sức mạnh của văn hóa,
khoa học-công nghệ, dân chủ, pháp quyền,…để dần dần lột xác, trở thành văn
minh. Cũng như vậy, chủ nghĩa cộng sản đầu thế kỷ XX và Quốc Tế 3 thời Lênin
cũng khác với chủ nghĩa cộng sản đã bị Stalin hóa, Mao-ít hóa sau này. Nếu Quốc
Tế 3 không công khai ủng hộ các dân tộc thuộc địa – nếu cũng chỉ như Quốc Tế 2
– chắc gì Nguyễn Ái Quốc đã ngả theo chủ nghĩa cộng sản?
Thứ
hai, cũng cần phân biệt điều mà Hồ Chí Minh tự giác, chủ động lựa chọn với
điều mà tình
thế bắt buộc ông phải chấp nhận (khi không còn con đường nào
khác), lại càng khác xa với những
điều người khác nhân danh Hồ Chí Minh đã làm!
Vai
trò của vĩ nhân là ở chỗ có biết nắm bắt thời cơ và tận dụng được thời cơ do
thời cuộc mang lại để thành đạt mục tiêu độc lập, thống nhất hay không; còn cá
nhân một lãnh tụ, dù lỗi lạc đến đâu – nhất là lãnh tụ của một nước thuộc
địa nghèo nàn, lạc hậu như nước ta – làm sao có thể vượt qua được vị thế
yếu kém của mình, để tác động vào thời đại, nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng,
hoài bão mà mình theo đuổi?
Người
viết thử mạo muội góp phần đưa ra mấy kiến giải sau đây.
1.Ai là người đầu tiên đưa chủ
nghĩa cộng sản vào Việt Nam?
Chủ
nghĩa cộng sản là một trào lưu tư tưởng, một khuynh hướng chính trị hình thành
từ nửa cuối thế kỷ XIX; khi chủ nghĩa tư bản đã hiện nguyên hình tàn bạo, đáng
nguyền rủa của nó, thì chủ nghĩa cộng sản đang là một khuynh hướng chính trị-xã
hội cấp tiến, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với phần đông trí thức Châu Âu thời
bấy giờ. Sang đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nó bắt đầu được truyền tới Trung
Quốc bởi những trí thức Tây học như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch,…dẫn
tới việc thành lập Đảng CS Trung Quốc năm 1921.
Ở
Việt Nam, vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc là người dân đầu tiên của một nước
nô lệ, sau những thất bại của lớp chí sĩ cha anh, đã rời nước ra đi tìm một con
đường mới cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Cái khó của Hồ Chí Minh
là cái khó
của người đi trước thời đại. Vào đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế
quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc
địa, vẫn còn là một vấn đề quá mới, chưa có lời giải. Chính
Engels đã từng viết (đại ý): Các dân tộc thuộc địa rồi sẽ được giải phóng, khi
một dân tộc này đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc đó không có tự do. Nhưng “quá trình ấy sẽ phát triển
như thế nào, điều này thật là khó nói”; “về điều này, tôi nghĩ rằng hiện nay
chúng ta chỉ có thể đề ra những giả thuyết khá bâng quơ mà thôi”[1].
Vào
thời điểm Nguyễn Tất Thành ra đi khảo sát thế giới, từ Á sang Âu, chưa có dân
tộc bị áp bức nào đấu tranh giành được tự do, chưa có tấm gương thắng lợi nào
để soi vào. Ở phương Tây, các đảng Xã hội thuộc Quốc tế II, sau chiến tranh thế
giới 1914-1918, do chủ nghĩa dân tộc bản vị, về cơ bản họ vẫn ủng hộ chính sách
thuộc địa của các chính phủ tư sản nước mình, họ cũng “đề ra những nghị quyết rất
hay (về vấn đề thuộc địa) nhưng để sau đó đưa vào các viện bảo tàng”!
Chỉ
duy nhất có Đảng CS Nga, với Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin, công khai tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ thiết thực cuộc đấu tranh của các
dân tộc phương Đông bằng những việc làm cụ thể. Nguyễn Ái Quốc đã từng đặt chân
tới nhiều nước phương Tây, từng chìa bàn tay hữu nghị ra với họ, nhưng không
được ai nắm lấy! Chính lúc ấy, ông đã tìm thấy ở Luận cương của Lênin một chỗ
dựa, một hướng đi mới, nên đã ngả theo Quốc tế 3, gia nhập hàng ngũ cộng sản, trở
thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một thực tế ai cũng đều đã biết.
Nhưng
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa cộng sản không phải với động cơ của một người đi tìm
chủ thuyết, như một bộ phận trí thức cấp tiến phương Tây thời bấy
giờ, chán ghét bất công của chế độ tư bản, họ đã tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản
một viễn cảnh đầy hy vọng về một “mùa xuân mới của nhân loại”. Còn ông Nguyễn
đến với Quốc Tế 3 từ
một nhu cầu cấp bách của dân tộc là đi tìm một phương sách,
một con đường cứu nước mới, sau khi các phong trào Đông du và Duy tân đã hoàn
toàn thất bại, chứ không
phải ông đến với Quốc Tế 3 từ sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cộng sản.
Vào thời điểm ấy, ông chưa có điều kiện nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách hệ
thống, nên đã không được thừa nhận là một người cộng sản thuần thành, vì người
ta thấy ông rất ít trích dẫn kinh điển mácxít, mà chỉ chú trọng vào vấn đề
dân tộc thuộc địa.
Nói
Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Việt Nam đầu tiên có thể đúng, nhưng là người
đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam lại là một nhận định cần
được xem xét kỹ. Hãy nhìn lại, từ bài phát biểu ở Đại hội Tours, đến các bài
báo trên Le
Paria, rồi tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Pháp năm 1925,… không có
bài viết nào trực tiếp tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, tất cả đều đứng
trên lập trường người dân thuộc địa mất nước mà tố cáo tội ác cai trị tàn
bạo, cướp bóc man rợ của chủ nghĩa thực dân; kêu gọi đồng bào thức tỉnh, đứng
dậy, đoàn kết đấu tranh giành lại độc lập, tự do.
Giữa
năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên để tham dự Hội nghị Quốc tế
Nông dân, tiếp theo là Đại hội V Quốc tế Cộng sản, rồi Đại hội các tổ chức quần
chúng như Thanh niên Quốc tế, Phụ nữ Quốc tế,…Nội dung các bài phát biểu của
Nguyễn Ái Quốc tại các diễn đàn này nói chung đều không đề cập đến những vấn đề
đang đặt ra trong phong trào cộng sản bấy giờ, mà chỉ tập trung vào một chủ đề
duy nhất: “Tôi
đến đây để không ngừng thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”! Điều
này đã gây cho Staline ấn tượng không mấy thiện cảm về Nguyễn Ái Quốc, coi ông
“không phải một
người cộng sản chân chính mà là một người còn mang nặng tinh thần dân tộc chủ
nghĩa ít có”[2].
Cuối
năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, với danh nghĩa thành viên trong phái
bộ của Borodine, để xúc tiến công tác tổ chức và huấn luyện, ươm mầm những hạt
giống cho cách mạng Việt Nam, sau đó lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng (chứ
chưa phải lập Đảng cộng sản). Theo Trần Dân Tiên viết trong “Hồ Chí Minh truyện”
thì từ tôn chỉ, mục đích đến điều lệ của Hội đều được ông mô phỏng theo chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên là dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.[3]
Trong
nội dung các bài giảng cho các lớp huấn luyện chính trị tại đây (sau được tập
hợp thành cuốn “Đường
cách mệnh” ) cũng như trong các bài viết của ông trên báo Thanh
Niên, chưa thấy nói gì đến mục tiêu thực hiện chủ nghĩa công sản ở Việt Nam,
tất cả chỉ chú trọng nói đến nội dung của dân tộc cách mệnh (như khẳng
định: dân
tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, sĩ nông công thương đều nhất trí
chống lại cường quyền); cách mệnh muốn thành công phải có đảng cách
mệnh, đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, phải đoàn kết, lấy công nông làm gốc, vì
họ là số đông nhất và bị áp bức nặng nề hơn cả; muốn làm tròn nhiệm vụ cách
mệnh, người cách mệnh phải có đạo đức cách mệnh, phải bền gan, phải hy sinh,…
Nói
chung, nội dung lý luận của những sách báo đó đều còn sơ giản, để phù hợp với
trình độ của phần đông hội viên thanh niên lúc bấy giờ, nên sau này đã bị Hà
Huy Tập – người thấm nhuần lý luận “giai
cấp chống giai cấp” của Đại Hội VI Quốc tế Cộng sản – phê phán là “cực kỳ sơ đẳng, mang dấu ấn
của thứ lý luận hợp tác giai cấp, không xác định động lực của cách mạng Đông
Dương, và không hiểu đúng vai trò độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản,…”[4].
Năm
1927, Quảng Châu khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Áí Quốc phải theo phái bộ Borodine
trở về Moscow, sau đó cả phái bộ đều bị Staline cách chức, rồi lần lượt bị
thanh trừng. Nguyễn Ái Quốc bị bỏ rơi, phải tự tìm đường về Xiêm để hoạt động.
Năm 1928, Đại hội QTCS lần thứ VI khai mạc, Nguyễn Ái Quốc không được triệu tập
về dự.
2.Đảng CS Việt Nam thành lập,
có phải do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng?
Đầu
năm 1930, trước sự xuất hiện và chia rẽ của ba nhóm cộng sản ở trong nước (điều
này ngoài dự kiến của Nguyễn Ái Quốc, vì theo ông, điều kiện ở Việt Nam chưa
chín muồi cho việc thành lập ĐCS); song với vai trò, trách nhiệm của mình, ông
vẫn đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam,
vì vậy ông được suy tôn là người sáng lập. Các văn kiện do ông thảo ra,
như Chính
cương, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng, Lời kêu gọi, dưới ký
tên: Nguyễn Ái Quốc: Thay mặt QTCS và Đảng CS Việt Nam, đều thấm nhuần những
quan điểm của Lênin đã nêu ra trong Luận
cương. Nhưng khi gửi sang Liên Xô báo cáo, đã bị QTCS bác bỏ, bởi
vì lúc này họ đã xa rời những quan điểm ấy của Lênin, chỉ nhấn mạnh một chiều
lý luận “giai cấp
chống giai cấp” theo tư tưởng chỉ đạo của Staline tại Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản 1928.
Sau
đó, Trần Phú được cử về, triệu tập Hội nghị TƯ tháng 10-1930, phê phán Hội nghị
hợp nhất “chỉ
lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất
nguy hiểm”, lại còn “chia
địa chủ ra làm đại, trung và tiểu địa chủ”, lại nói “phải lợi dụng bọn tư bản mà
chưa rõ mặt phản cách mạng” cùng một số “sai lầm” khác, rồi ra
nghị quyết thủ tiêu các văn kiện của Hội nghị hợp nhất, thông qua Luận cương Chính trị 1930,
đổi tên đảng thành Đảng CS Đông Dương, bầu ra BCH TƯ mới, do Trần Phú làm Tổng
Bí thư. Cương
lĩnh, Điều lệ mới đều quán triệt quan điểm “giai cấp chống giai cấp”. Phải
chăng, chính khuynh hướng “tả” của Luận
cương Trần Phú, sau khi được phổ biến xuống tới các địa phương, đã
là một trong những tác nhân góp phần thổi bùng lên phong trào Xô viết ở
Nghệ-Tĩnh?
Cần
nói thêm rằng, phong trào đó có thể còn bị ảnh hưởng bởi một tổ chức mácxít
khuynh tả nữa là Liên
Đoàn CS Nam Dương – một chi nhánh của Đảng CS Trung Quốc đã
hiện hữu tại Đông Nam Á và Nam Việt Nam từ những năm 1928-1930. Ta được biết,
sau Đại hội VI QTCS, Lý Lập Tam, nguyên là đại diện của ĐCS Trung Quốc bên cạnh
QTCS, một nhân vật cực tả, đã được Staline chú ý, đưa vào Ban Chấp Hành QTCS,
rồi trở thành người đứng đầu Đảng CS TQ. Chính nhân vật này đã đưa Đảng CS TQ
đi vào con đường phiêu lưu tả khuynh trong một thời gian dài, gây nên những tổn
thất to lớn cho Đảng của họ. Chính họ Lý đã chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền
chủ nghĩa cộng sản, xây dựng và phát triển tổ chức CS trong người Hoa ở Thái
Lan, Mã Lai, Nam Việt Nam ,…( trụ sở đặt tại Singapore, nên tổ chức này còn có
tên gọi là Liên
Đoàn Tân Gia Ba), nhằm phát huy ảnh hưởng của ĐCS Trung Quốc
tại Đông Nam Á. Khi Đảng CS Đông Dương thành lập, cử ra Ban TƯ lâm thời gồm bảy
người, theo quan điểm quốc tế, họ đã mời một đại diện của tổ chức CS người Hoa
ở Sài-Gòn-Chợ Lớn tham gia BCH, đó là Lưu Lập Đạo (tức “A Lầu”). Phải chăng,
khẩu hiệu cực tả “trí,
phú, địa, hào-đào tận gốc, chốc tận rễ” là do ảnh hưởng
từ Liên đoàn này?
(Đây là vần đề cần được nghiên cứu thêm).
Những
sự việc nói trên đều diễn ra ngoài
ý muốn của Nguyễn Ái Quốc , vì lúc này, ông vẫn đang ở nước
ngoài và đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa, chỉ còn là “cái thùng thư” chuyển tiếp
giữa Quốc tế CS và Ban TƯ trong nước. Góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa CS ở
Đông Dương còn phải kể đến báo chí công khai ở Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1926,
Phan Văn Trường, lần đầu tiên ở Việt Nam, đã cho đăng toàn văn Tuyên ngôn đảng cộng sản của
Marx-Engels trên tờ La
Cloche Féléecủa ông, từ số 53 đến số 60 (bằng tiếng Pháp). Báo chí
của chính quyền thuộc địa, lo sợ trước nguy cơ bùng phát mạnh mẽ của phong trào
cộng sản, cũng cho đăng nhiều bài xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản để cảnh
giới, răn đe, vô tình cũng đã làm một việc tuyên truyền không công chủ nghĩa
CS. Đó là chưa nói đến hoạt động và sách báo tuyên truyền của nhóm đệ tứ của Tạ
Thu Thâu, Phan Văn Hùm,…và nhà xuất bản Hàn Thuyên trong những năm 1930 sau
này. Trong khi đó, Chính
cương, Sách lược vắn tắt,…do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, gửi đi
Moscow, bị coi là không quán triệt đường lối “giai cấp chống giai cấp”, nên đã
bị thủ tiêu ngay từ trong trứng, chưa mấy ai được biết đến các văn kiện này
(cho tới khi lần đầu tiên được đưa vào Hồ
Chí Minh Toàn tập, t.1, xuất bản lần đầu năm 1980).
Để
hiểu được Hồ Chí Minh, cần thiết phải nhận
thức trong sự so sánh quan điểm, đường lối của ông với đường
lối tả khuynh của Staline và QTCS sau khi Lênin qua đời, nhất là từ sau Đại hội
VI 1928. Đặc điểm của chủ nghĩa tả khuynh dưới sự áp đặt của Staline là nhấn
mạnh độc
quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, nôn nóng thực hiện ngay cách mạng vô sản khi
các điều kiện kinh tế-xã hội chưa chín muồi, đề cao chuyên chính vô sản và bạo lực cách
mạng, sử dụng guồng máy chuyên chính để đàn áp, sẵn sàng bắt
bớ, thủ tiêu những người có ý kiến khác biệt; mang nặng chủ nghĩa biệt phái, đề
cao công nông nhưng không trọng dụng trí thức; không cho phép các ĐCS được liên
minh tạm thời với các Đảng Dân chủ Xã hội, không đánh giá đúng mức sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc ở thuộc địa, không cho phép người cộng
sản hợp tác tạm thời với các đảng phái yêu nước và dân chủ ở các nước họ…Nói
chung là Staline đã từ bỏ những quan điểm đúng đắn của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc
đã tiếp thu và kiên trì bảo vệ.
Quan
điểm, đường lối chính trị của Hồ Chí Minh hình thành từ nền tảng văn hóa phương
Đông của ông. Sớm đi sang phương Tây, văn hóa Hồ Chí Minh còn là sự chưng cất
tinh hoa văn hóa ÂuTây, đặc biệt là lý tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái của
cách mạng Pháp, vì vậy, tư tưởng chính trị của ông cũng không đóng khung trong
một học thuyết duy nhất nào. Hồ Chí Minh từng viết: “Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn
Dật Tiên,…đều có những điểm chung giống nhau, đó là cùng mưu cầu hạnh phúc cho
loài người. Tôi cố gắng là người học trò nhỏ của các vị ấy”[5].
Như vậy, mọi lý thuyết, chủ nghĩa đối với ông đều có cái hay, đều cần phải
nghiên cứu, tham khảo, học lấy cái đúng, cái tốt, nhưng tất cả đều chỉ là phương tiện để
đạt mục đích là
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là tóm tắt học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
của Hồ Chí Minh.
Nói
cách khác, tư duy chính trị Hồ Chí Minh luôn
phấn đấu hướng theo những giá trị chung của nhân loại. Cuốn sách
đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc dịch sang tiếng Việt không phải “Tuyên ngôn đảng cộng sản”
mà là “Tinh thần
pháp luật” của Montesquieu!
Do
đó, tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng trong căn cốt, ông vẫn là người
yêu nước, ông dám vượt qua một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản ngay
cả khi đang sống giữa trung tâm của nó ở Moscow. Sau khi phân tích những
đặc điểm kinh tế-xã hội-văn hóa-lịch sử của các dân tộc Viễn Đông, ông khẳng
định:“Cuộc đấu
tranh giai cấp ở đó (tức Đông Dương) không diễn ra giống như ở phương
Tây”, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…,người ta sẽ không
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy
nhất của đời sống xã hội của họ”[6].
Ông
không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất mà lấy đại đoàn kết dân tộc
làm trọng; không nhấn mạnh chuyên chính vô sản mà đề cao nhà nước dân chủ; đề
cao và tin dùng trí thức, kể cả trí thức cũ. Ông chủ trương lấy dân làm gốc,
lúc nào cũng tâm niệm: Tổ
quốc trên hết, dân tộc trên hết, nhân dân trên hết; lợi ích của giai cấp, của
bộ phận phải phục tùng lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc. Học thuyết của
ông có thể tóm tắt trong 9 chữ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
Dựa
theo những cứ liệu đó, nhà sử học Pháp Pierre Brocheux – người đã dành cả cuộc
đời nghiên cứu về Hồ Chí Minh – từng đưa ra ý kiến riêng: “Tôi cho rằng ông Hồ Chí
Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp
những ý tưởng của Khổng giáo – một truyền thống ý thức hệ Đông Á – với các dòng
tư tưởng châu Âu, từ chủ nghĩa Mác đến chủ nghĩa Lênin…Theo tôi, trước sau ông
là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam
hiện nay, chỉ đúng một phần thôi. Ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân văn
và tính công bằng xã hội theo kiểu Khổng giáo”[7].
Đó là một ý kiến được nhiều học giả trong, ngoài nước chú ý và chia sẻ.
Sau
những trải nghiệm đau buồn riêng của Nguyễn Ái Quốc qua hai thời kỳ sống, hoạt
động, học tập ở Liên Xô, niềm tin của ông vào Liên Xô và QTCS như là chỗ dựa duy nhất cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, không còn nguyên vẹn như
xưa. Ông nhận thấy cách mạng Việt Nam có
thể và cần phải có thêm nhiều chỗ dựa khác, do đó cần chủ động tìm ra những
phương thức liên minh tạm thời, hợp tác rộng rãi (theo tinh
thần của Lênin) nhằm tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể và có lợi cho sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
Sau
khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô cuối năm 1938, tình hình thế giới đã có những
biến chuyển lớn: chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Liên Xô đã hợp tác với
Anh, Mỹ , Pháp,…hình thành phe Đồng minh chống phát xít; năm 1943, QTCS tuyên
bố tự giải tán, để các ĐCS được quyền chủ động hơn, phù hợp với điều kiện
của mỗi nước. Ở Trung Quốc, hai phe Quốc-Cộng lại hợp tác với nhau lần thứ hai
để cùng chống Nhật. Sau khi bắt được liên lạc với tổ chức Đảng trong nước,
Nguyễn Ái Quốc lập tức tranh thủ về nước chỉ đạo phong trào.
Lúc
này, Ban TƯ cũ chịu ảnh hưởng của xu hướng Trần Phú, Hà Huy Tập hầu hết đã bị
bắt và hy sinh, Ban TƯ lâm thời được thành lập trên cơ sở Ban lãnh đạo Xứ ủy
Bắc Kỳ- gồm những người vốn có quan điểm “ôn hòa” hơn (Ban Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ
Trịnh Đình Cửu làm bí thư, vẫn cho rằng đường lối của QTCS mà Trần Phú là đại
diện, không phù hợp với thực tế Việt Nam, nên không tán thành, không tích cực
thực thi, thường bị Trần Phú nhắc nhở, phê phán, đe dọa kỷ luật). Nguyễn Ái
Quốc trở về trong hoàn cảnh Ban TƯ lâm thời tự lập, do Trường Chinh đứng đầu,
đang cần được thừa nhận chính thức, nên đã xem Nguyễn Ái Quốc như là đại diện
của Quốc tế và suy tôn như là lãnh tụ tối cao của Đảng. Có thể coi đây là cuộc
gặp gỡ lịch sử, nếu không có cơ sở quần chúng cách mạng do Xứ ủy Bắc Kỳ gây
dựng, không có sự suy tôn và nhất trí hợp tác của Trường Chinh, chưa chắc
Cách mạng tháng Tám 1945 đã có thể bùng nổ thuận lợi và thành công như đã diễn
ra!
Dưới
sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị TƯ 8 – 1941 đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
chống đế quốc, giành độc lập dân tộc; còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại
ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước và phải phục tùng nhiệm vụ chống
đế quốc. Nghị quyết Hội nghị vạch rõ: “Trong
lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải được đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc; không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[8].
Nghị quyết Hội nghị TƯ 8 – 1941 thực chất là sự trở lại với đường lối, quan
điểm đã được Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong Chính cương, Sách lược vắn tắt từ Hội
nghị hợp nhất đầu năm 1930.
Sau
Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết thư kêu gọi: “Hỡi
đồng bào! Hỡi các bậc phụ huynh! Hỡi các bậc hiền huynh chí sĩ! Hỡi các bậc phú
hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ,
công chức, tiểu thương! [9], nghĩa là
nhằm vào mọi tầng lớp nhân dân, chứ không phải chỉ chú ý kêu gọi Hỡi công nông
như Trần Phú ngày trước. Ta hiểu vì sao, sau năm 1945, Hồ Chí Minh đã thực tâm
dùng Cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao, đã mời các trí thức, quan lại trong
chính quyền thực dân, phong kiến cũ, tham gia vào Chính phủ mới sau cách mạng;
đã trả lại tự do cho Ngô Đình Diệm, cũng như sau này đã không loại trừ khả năng
sẵn sàng đàm phán với ông ta để tìm ra một giải pháp cho công cuộc hòa bình,
thống nhất đất nước…
Việc
ông Nguyễn chủ động liên hệ với Tướng Claire Chennault-Tư lệnh không đoàn 14
của Mỹ mang tên “Cọp
bay” đóng ở Côn Minh và với đơn vị OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ )-
nhân vụ trao trả trung úy phi công Shaw cho họ – là một cơ hội để tuyên truyền,
giới thiệu, nêu cao thanh thế của phong trào Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng
hộ và giúp đỡ của lực lượng Đồng minh – ít nhất là trên danh nghĩa – cho cuộc
đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Việc ông lên đường đi Trùng Khánh năm
1942 để tìm gặp Tưởng Giới Thạch, cũng là nhằm tìm kiếm sự hợp tác chống kẻ thù
chung của hai dân tộc Hoa-Việt là phát xit Nhật,…Tất cả những việc làm đó đều
nằm trong chiến lược tranh thủ liên minh, hợp tác quốc tế rộng rãi của Hồ Chí
Minh, nhất là trong điều kiện Quốc tế 3 đã tuyên bố tự giải tán.
Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành
lập nhưng không được một quốc gia nào công nhận. Quá khứ cộng sản của Hồ Chí Minh
đã làm các nước Đồng minh e ngại. Tình báo Xô viết thừa biết Hồ Chí Minh là ai,
nhưng Kremlin vẫn giữ thái độ im lặng, thực tế như đã bị bỏ rơi. Lúc này, để
vượt qua nguy cơ mất còn, Hồ Chí Minh đã khôn khéo thi hành một đối sách hòa
hoãn cực kỳ mềm dẻo mà cũng phi thường dũng cảm, đó là:
– Đối
với Tầu Tưởng, ông tuyên bố Đảng CS Đông Dương tự giải tán, thực chất là
rút vào hoạt động bí mật. Hai là, chấp nhận cải tổ Chính phủ, rút bớt các thành
viên cộng sản ra ngoài, lui ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối
lập có thêm thời gian chuẩn bị tham gia; sau bầu cử, lại chấp nhận cho họ thêm
70 ghế đại biểu không qua bầu cử; trên cơ sở đó Quốc hội cử ra Chính phủ liên
hiệp gồm 10 bộ, trong đó Việt Minh 2, Dân chủ 2, Việt quốc 2, Việt cách 2, không
đảng phái 2 (vẻ như Việt Minh chỉ là thiểu số).
– Đối
với thực dân Pháp, Hồ Chí Minh biết rõ người Pháp chưa chịu từ bỏ chính
sách tái thuộc địa hóa Đông Dương, họ đàm phán với Tưởng rồi ký Hiệp định Pháp-Hoa ngày 28-2-1946,
bằng cách trả lại những tô giới thuộc Pháp trên đất Tàu, bán lại đường sắt Lào
Cai-Vân Nam, cho phép Tưởng dùng cảng Hải Phòng để vận chuyển hàng hóa quá cảnh
miễn thuế qua đường Việt Nam, …Đổi lại quân đội Pháp được phép đem quân ra miền
Bắc thay thế quân Tưởng. Nhưng muốn đem quân ra Bắc êm thấm, không gặp đụng độ
quân sự, Pháp buộc phải điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tình thế trên đây
đặt ra câu hỏi: ta phải quyết đánh hay tạm hòa với Pháp?
Cân
nhắc tương quan lực lượng, Cụ Hồ chọn giải pháp tạm hòa. Từ cuối tháng 2-1946,
hai bên xúc tiến đàm phán. Điều khoản gay cấn nhất là ta đòi Pháp phải thừa
nhận quyền
độc lập và thống nhất của Việt Nam; còn Pháp chỉ muốn công
nhận Việt Nam là một quốc gia tự
trị. Nếu Hiệp định Pháp- Việt chưa được ký kết thì quân Tưởng chưa
thể rút đi, quân Pháp chưa được phép đổ bộ vào Hải Phòng, xung đột đổ máu giữa
các bên sẽ vẫn tiếp tục nổ ra. Để tháo gỡ tình hình, Hồ Chí Minh đưa ra giải
pháp nhân nhượng:
–
Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc
gia tự do (état libre, thay cho từ indépendance, độc lập) có
chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, ở trong Liên bang Đông Dương
và trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp phải cam đoan thừa nhận kết quả
của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.
–
Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp được vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội
Trung Hoa và sẽ phải rút hết sau thời hạn 5 năm.
Đây
là một giải pháp “Câu Tiễn”, nhờ đó, Hiệp
định sơ bộ 6-3 đã được ký kết. Nhưng các đảng phái đối lập lại
muốn phá, vì nếu đánh nhau, Việt Minh sẽ thua, họ sẽ được lợi, nên đã ra sức vu
cáo Hồ Chí Minh là “bán nước”. Nhưng đại đa số dân chúng Việt Nam lại chấp nhận
một thỏa hiệp tạm thời với Pháp cốt để đuổi được gần 20 vạn quân Tầu về nước,
bởi chính họ mới là kẻ thù truyền kiếp của dân ta, đã mấy ngàn năm nay, chưa
bao giờ họ từ bỏ dã tâm xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì vậy, ở thời điểm
này, Hồ Chí Minh đã phải nói ra một câu – mà báo chí “lề phải” ở Việt Nam chưa
bao giờ dám nhắc lại:“Thà
chịu ngửi phân của người Pháp trong 5 năm còn hơn là phải ngửi phân của người
Tầu trong hàng nghìn năm!”[10].
(Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh không mơ hồ gì về kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc).
Nếu Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 được
Pháp nghiêm chỉnh thực hiện thì Việt Nam đã không phải tiến hành cuộc kháng
chiến 9 năm gian khổ và chủ nghĩa thực dân Pháp đã không bị chôn vùi ở Điện
Biên Phủ; Việt Nam sẽ ở trong Khối Liên hiệp Pháp (Union Français) và biết đâu,
chắc gì Việt Nam đã buộc phải ngả theo CS Tàu sau năm 1949, trong khi Staline
vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Là một nhà chính trị thực tiễn, Cụ Hồ đã nhận thấy mục
tiêu cộng sản là điều còn rất xa vời, nên từng nhiều lần tuyên bố: “Tôi là người cộng sản,
nhưng điều quan tâm lớn nhất của tôi là nền độc lập của Việt Nam. Tôi bảo đảm
với các ngài rằng sau 50 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản vẫn sẽ chưa được thực hiện
ở Việt Nam !”[11].
Do
thái độ không thức thời của giới cầm quyền Pháp lúc đó, tiêu biểu là De Gaulle,
nên cơ hội này đã bị tuột mất. Hai mươi năm sau, chính De Gaulle đã có sự nhìn
nhận muộn màng về trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương
thời đoạn 1945-1946. Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1966, ông
viết: “ Giá
có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau Đại
chiến thế giới 2 thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giày xéo
đất nước Ngài hôm nay”[12].
– Đối
với Mỹ và phương Tây: Sự kiện Tổng thống F. Roosevelt tuyên bố sau chiến
tranh kết thúc sẽ không trao trả các thuộc địa cũ ở Đông Dương cho Pháp, mà sẽ
cho các nước này được hưởng chế độ “ủy trị” của Liên Hiệp quốc; rồi người Mỹ đã
đi trước thực hiện trao trả độc lập cho Philippines ngay sau chiến tranh kết
thúc,… Những sự kiện đó đã có sức hấp dẫn rất lớn đối với Hồ Chí Minh, nên
thông qua mấy nhân vật quen biết trong nhóm OSS, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách
tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập của Việt Nam .
Trong
2 năm 1945-1946, Hồ Chí Minh đã viết 8 bức thư gửi tới Tổng thống Harry Truman
và 3 thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes, nhằm kêu gọi Mỹ, với tư cách
một quốc gia bênh vực và bảo vệ Công lý thế giới, sẽ có những bước đi mạnh mẽ
trong việc ủng hộ nền độc lập của Việt Nam; đồng thời bày tỏ nguyện vọng của
Việt Nam muốn
được hợp tác toàn diện với Mỹ, muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam
sang Mỹ học tập, nhằm tiếp thu thành tựu kỹ thuật hiện đại của Mỹ. Ông cũng
tuyên bố sẵn sàng để cho Mỹ đặt căn cứ hải quân tại Cam Ranh,…Chính Hồ Chí Minh
đã sớm chủ động cho thành lập Hội
hữu nghị Việt-Mỹ, và tham dự lễ ra mắt của Hội này tại Hà Nội, cùng
với sự có mặt của tướng Mỹ Gallagher, v.v..
Đầu
tháng 12-1946, Hồ Chí Minh đã tiếp Abbott Low Moffatt, giám đốc Vụ Đông Nam Á
Bộ Ngoại giao Mỹ, được cử sang Đông Dương tìm hiểu tình hình. Sau buổi tiếp,
Moffatt đưa ra nhận xét: “Hồ
Chí Minh trước hết là một người yêu nước, nhiệt tình đấu tranh cho nền độc lập
của Việt Nam, ông có thể được coi như là một Titô ở châu Á”[13].
Những
ứng xử trên cho thấy Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước thức thời, ôn hòa, giỏi
ứng biến, chứ đâu phải là một người cộng sản cứng nhắc, cực đoan! Nếu những nỗ
lực trên của Hồ Chí Minh được phía Mỹ tiếp nhận thì Việt Nam đã là một nước
cộng hòa dân chủ không bị chia cắt, đã mở cửa, sớm phát triển nền kinh tế thị
trường, Mỹ đã không phải đổ của, đổ người vào cuộc chiến tranh Việt Nam, rồi sa
lầy tại đây trong khoảng hơn 20 năm! Tiếc thay, lịch sử lại không hề biết đến
chữ “nếu”!
Bên
cạnh đó, Cụ Hồ còn cử nhiều phái đoàn thân thiện của Việt Nam đi thăm các
nước khác: Phạm Văn Đồng dẫn đầu Đoàn đại biếu Quốc hội Việt Nam đi thăm
hữu nghị nước Pháp; cử Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ ( là đại biểu của
Việt Nam Quốc dân đảng trong Chính phủ Liên hiệp) dẫn đầu Đoàn ngoại giao,
trong đoàn có Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, sang Trùng Khánh để xin tiếp kiến Tưởng
Giới Thạch; cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - với tư cách đại diện đặc biệt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh – sang Pháp gặp M. Thorez, sang Ý gặp Đại sứ Liên Xô
Koulajenkôp, đến Ấn Độ gặp J. Nehru, để thông báo về tình hình Việt Nam và đề nghị
giúp đỡ vật chất, tinh thần cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Tiếc
rằng các hoạt động đó đều không đạt kết quả mong muốn.
3. Hồ Chí Minh tái hòa nhập với
Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?
Do
đánh giá sai tình hình, Pháp muốn đánh nhanh, thắng nhanh vào lúc lực lượng vũ
trang của Việt Nam vừa thành lập, số lượng nhỏ, trang bị kém, khó có thể chống
lại một quân đội nhà nghề được trang bị tối tân như quân đội Pháp, giỏi lắm
cũng chỉ tồn tại được trong vài ba tuần lễ! Họ ra sức khiêu khích, gây ra những
vụ tàn sát đẫm máu đối với đồng bào ta ở nhiều nơi, buộc ta phải chống lại.
Chiến tranh đã nổ ra. Để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ thành phố, rút về nông
thôn, lên miền núi, xây dựng căn cứ địa, thực hiện phương châm “kháng chiến
trường kỳ”.
Thu-Đông
1947, ta bẻ gãy được cuộc tiến công 2 gọng kìm của Pháp lên chiến khu Việt Bắc,
địch tổn thất nặng nề, nhưng xuýt nữa, quân nhảy dù của họ bắt được cơ quan đầu
não của ta! Nếu họ đủ sức mở tiếp cuộc tiến công thứ 2, liên minh được với
Tưởng, thực hiện dưới đánh lên, trên đánh xuống, thì cuộc kháng chiến của quân
dân ta có nguy cơ bị dập tắt hoàn toàn! Bởi lấy gì mà chống lại, khi số vũ khí,
đạn dược ít ỏi ta lấy được của Nhật, mua lại của Tầu, đã được dùng hết! Ta lại
đang trong thế bị bao vây tứ bề, thoát ra bằng cách nào? Tình hình đó buộc Cụ
Hồ phải tìm cách cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nếu không được giúp đỡ
thì cũng phải trung lập hóa vai trò của họ. Một phái đoàn được cử sang Nam
Kinh, với lễ vật hậu hĩnh, để thuyết phục Tưởng tuân theo tôn chỉ “phù nhược, ức cường”
của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu đang đấu tranh chống các cường
quốc thực dân, giành lại độc lập dân tộc.
Chuyến
đi chưa được giải mã, chỉ biết rằng sau đó tình hình quốc tế có những chuyển biến
rất nhanh chóng: Giải phóng quân Trung Quốc “thần tốc Nam hạ”, buộc quân Tưởng
phải bỏ chạy ra Đài Loan; tháng 10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành
lập, rồi nước CHDC Đức cũng ra đời, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới từ Tây sang Đông.
Thắng
lợi của cách mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo ngại: nếu Pháp thất bại ở Đông
Dương, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á có khả năng ngả
theo con đường cộng sản hóa, Mỹ thấy đã đến lúc phải can thiệp vào Đông Dương.
Một mình ta đánh nhau với Pháp đã khó, nay lại có thêm sự can thiệp của Mỹ, ta
sẽ đối phó thế nào, phải hành xử ra sao?
Nhẫn
nại, kiên trì hòa hoãn mãi với phương Tây mà không thành, để thoát khỏi nguy cơ
xấu nhất, Hồ Chí Minh chỉ còn một con đường duy nhất: bắt mối quan hệ với Đảng
CS Trung Quốc, thông qua họ để nối lại quan hệ với Kremli, tái hòa nhập phong
trào cộng sản quốc tế.
Mao
hưởng ứng ngay, vì phù hợp với ý đồ của họ: cần có một “phên dậu” ở phía Nam,
giúp Trung Quốc tránh phải đụng độ trực tiếp với đế quốc – điều kiện cần để họ
tập trung vào xây dựng và phát triển trong hòa bình.
Song
việc thuyết phục Staline đồng tình lại không đơn giản. Thứ nhất, Việt Nam là
một nước nhỏ, lại ở quá xa Liên Xô, chưa có vai trò gì trong chiến lược đối
ngoại của Liên Xô lúc bấy giờ. Hai là, Việt Nam vốn là thuộc địa cũ của Pháp,
mà Pháp hiện đang là đối tác chiến lược Liên Xô cần tranh thủ ở Tây Âu, hai
nước đã ký với nhau Hiệp
định hợp tác,bất tương xâm Pháp-Xô (1944-1964) hiện vẫn đang
còn giá trị; đối với Staline, Việt Nam không quan trọng bằng Pháp. Ba là, bản
thân Staline vốn từ trước đã không mấy tin tưởng vào Hồ Chí Minh; nay theo báo
cáo của KGB thì Hồ Chí Minh có vẻ như đang muốn ve vãn phương Tây, nhất là qua
hai bức thư của Trần Ngọc Danh (em trai Trần Phú) gửi Staline, phê phán Hồ Chí
Minh đang đi theo con đường của chủ nghĩa dân tộc tư sản, từ bỏ chủ nghĩa
Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của
Mác,…Vì vậy, ban đầu Staline đã từ chối không nhận tiếp Hồ Chí Minh. Sau nhờ sự
kiên trì thuyết phục của Mao và Chu, Staline đồng ý tiếp, nhưng không công
khai, mà tiếp trong phòng làm việc riêng của mình, với sự có mặt hạn chế của
vài nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Chính phủ Liên Xô.
Trong
cuộc tiếp, Staline đã thẳng thắn phê bình Hồ Chí Minh ba điều: vấn đề tự ý giải
tán Đảng, vấn đề thành phần Chính phủ (lắm nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, …ý
nói không phải chính quyền công nông), việc không chịu tiến hành cải cách ruộng
đất. Sau đó, yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một bài tự phê bình về các vấn
đề trên, để đăng trên tờ báo của Cục thông tin Quốc tế Cộng sản
(Kominform) “Vì
một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân”[14] .
Còn vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline phân công cho
Trung Quốc đảm nhiệm, vì ở ngay sát Việt Nam, đồng thời nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học
tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Rõ ràng là Liên Xô không muốn công
khai dính líu đến vấn đề Việt Nam ở thời điểm nhạy cảm này.
Dù
chỉ được đón tiếp lạnh nhạt, chuyến đi của Hồ Chí Minh đến Liên Xô đã giúp Việt
Nam thoát ra khỏi thế cô lập, tái hòa nhập với phong trào CSQT, mở ra hậu
phương lớn, nhờ đó đưa cuộc kháng chiến của ta đi đến thắng lợi ở Điện Biên
Phủ. Nhưng cũng từ đây sẽ phát sinh những hệ lụy phức tạp mà Hồ Chí Minh phải
gánh chịu về sau này. Sự viện trợ về quân sự và kinh tế đi liền với những áp
đặt về quan điểm chính trị, về cơ chế, tổ chức,…theo mô hình của Trung Quốc. Từ
đây, Hồ Chí Minh rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ như ở giai
đoạn trước.
Mặc
dù có sự thúc ép rất mạnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn nấn ná, trì hoãn
trong thực hiện các chỉ thị của Staline. Phải sang đầu năm 1951, ông mới tiến
hành Đại hội toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng CS ra công khai, nhưng đổi tên
thành Đảng Lao Động Việt Nam; năm 1953 mới phát động quần chúng thực hiện giảm
tô, năm 1954 mới thí điểm cải cách ruộng đất ở một vài vùng trung du; sau hòa
bình 1955-56 mới triển khai rộng rãi trên toàn miền Bắc. Đặc biệt, họ đòi ta
phải cải tổ quân đội, đặt ra hệ thống chính ủy, ép ta phải thay thế những tướng
tá, cán bộ chỉ huy các cấp có nguồn gốc xuất thân trí thức, tiểu tư sản bằng
những cán bộ gốc gác công nông! (thực ra là muốn tạo ra một đội ngũ tướng tá
mới để dễ bề thao túng hơn). Vị tướng phụ trách Tổng cục cán bộ đã trình lên Hồ
Chí Minh một danh sách hàng trăm người phải thay thế, trong đó có cả Đại tướng
Võ Nguyên Giáp! Song Cụ Hồ đã kiên quyết phản đối: “Gạt ra một lúc từng này người, lấy ai mà chỉ
huy? Phải đốt ngay danh sách đó đi!”. Nhưng rồi có điều Cụ
cũng phải nhượng bộ, chấp nhận đề bạt thêm một đại tướng xuất thân công nông,
phụ trách chính trị để cân bằng với Võ Nguyên Giáp! (mà theo lý thuyết của Mao
thì chính trị vẫn cao hơn quân sự).
Dưới
sức ép của các cố vấn Trung Quốc, hàng loạt sai lầm tả khuynh đã diễn ra sau
đó, đau đớn nhất là sai lầm trong cải cách ruộng đất; là không khí đấu tố căng
thẳng trong chỉnh huấn, chỉnh quân, có người đã phát điên, có người phải tự
vẫn! Nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, xuất thân gia đình lớp trên, lo sợ, đã từ bỏ
kháng chiến về thành. Sau Hiệp định Giơ-ne 1954, hàng chục vạn đồng bào đã bỏ
quê hương di cư vào Nam. Cụ Hồ rất đau đớn trước nhưng tổn thất đó, Người đã
phải khóc, nhận lỗi trước Quốc hội và thực tâm Cụ muốn điều chỉnh lại chính
sách. Nhưng phía Trung Quốc đã có phản ứng tiêu cực. Chu Ân Lai từng phát biểu
thẳng với ta (đại ý): Thắng
lợi trong cải cách là cơ bản, còn oan sai-dù có lên tới ngàn vụ- nếu so với cải
cách ruộng đất ở Trung Quốc liệu có thấm thá gì mà phải làm ầm ỹ đến như thế!
Lưu Thiếu Kỳ thì đã phát biểu trong Hội nghị TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày
25-03-1963 rằng: “Hồ
Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh…Sau chiến cuộc 1954, ông ta vẫn còn chần
chừ, không dứt khoát chọn chế độ tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta
(tức ĐCS Trung Quốc) đã phải quyết định cho ông ta”[15]!.
Một dân tộc nhược tiểu muốn đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, không thể không
tranh thủ liên minh, liên kết quốc tế, lợi dụng sức mạnh thời đại để chiến
thắng kẻ thù, theo sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù đã rất
khôn khéo điều chỉnh và chấp nhận thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt
của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu cao cả nhất là độc lập, thống nhất cho dân
tộc, song Hồ Chí Minh đã không thể dự kiến hết được mọi diễn biến phức
tạp về sau, nên đã phải gánh chịu những điều tiếng nặng nề, nhất là về sau này,
khi “người đồng chí quốc tế vô sản” đã hiện nguyên hình là “kẻ thù xâm lược
bành trướng Đại Hán”!
Nhưng
không thể vì những éo le đó của lịch sử, mà đi đến quy kết những nhân nhượng
của Cụ Hồ khi phải ký Hiệp
định sơ bộ 6-3 là hữu
khuynh; không thể coi việc từng bước phải chấp nhận những áp
đặt đường lối của Mao sau 1950, là đã rơi vào “tả” khuynh; cũng như không thể
cho là đã mắc sai
lầm khi phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định Genève 1954 mà
kết quả của nó không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường, …Đơn
giản vì xưa nay một nước nhỏ, trong thế phụ thuộc vào những nước lớn, khó có
thể tự quyết định được số phận của mình. Đó là những ràng buộc khắc nghiệt của
hoàn cảnh mà Hồ Chí Minh và Đảng CS Việt Nam đã không thể vượt qua. Chân lý “không gì quý hơn độc lập,
tự do” được Cụ đúc kết từ những trải nghiệm qua nhiều mối quan hệ,
trong đó có cả quan hệ với ông bạn “vàng” từng được coi “vừa là đồng chí, vừa
là anh em”. Cảm quan về nỗi “cay đắng” này từ sớm đã được Cụ viết ra thành thơ:
Trên
đời ngàn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
...
Các
nhà nghiên cứu trong nước đã suy tôn Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận,
hay nhà văn hóa,…kèm theo những tính từ rất cao... Nhưng chính Cụ lại từng
nói: Nhà
thơ gì tôi? Trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết
làm gì thì làm thơ, thế thôi! Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí,
gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất.
...
Chiến
thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu được coi là một trong những sự kiện lớn
nhất của thế kỷ XX, nó đã đào mồ chôn chủ nghĩa thực dân Pháp đồng thời mở đầu
cho sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn thế
giới, làm cho tên tuổi Việt Nam – Hồ Chí Minh được rất nhiều người, nhiều dân
tộc biết đến và hết lòng khâm phục. Nhân loại đã nhất trí suy tôn Hồ Chí Minh
là “Anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam , đồng thời là chiến sĩ tiên phong của phong
trào giải phóng các dân tộc thuộc địa”! Có lẽ, đây là sự vinh
danh cao cả nhất, đúng đắn nhất, xứng đáng nhất với Hồ Chí Minh – một người đã
nửa thế kỷ không ngừng đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp
giải phóng các dân tộc bị áp bức. Một cuộc đời như thế, tuy chưa thật trọn vẹn,
nhưng có thể nói là đã hoàn toàn xứng đáng đứng vào hàng các vĩ nhân của nhân
loại trong thế kỷ XX.
*
Lịch
sử dân tộc ta đã ghi lại không ít tên tuổi sáng chói của những anh hùng cứu
nước, chống ngoại xâm, như hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…GS Hoàng Xuân Hãn, trong một
thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có đoạn viết: tuy nước ta có nhiều cuộc chiến thắng ngoại xâm,
nhưng “chỉ có hai
cuộc giải phóng mà thôi: thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi và thời
1945-1975 với Bác Hồ cùng các Anh” [16] . Ý GS Hãn muốn nói: cần phân biệt
giữa chiến
thắng chống ngoại xâm với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước,
một bên có sẵn một hệ thống nhà nước với quân đội hùng hậu được trang bị và tổ
chức chặt chẽ, được nhân dân cả nước sẵn sàng góp người, góp của để bảo vệ Tổ
quốc; với bên kia là cuộc đấu tranh giải phóng đất nước (đang bị ngoại bang
thống trị với hệ thống cảnh sát, máy chém, nhà tù), phải khởi sự từ hai bàn tay
trắng, phải bí mật nhen nhóm, thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù của nhân dân,
phải rất giỏi tổ chức quần chúng, từ nhen từng đốm lửa nhỏ đến đốt cháy cả đồng
cỏ rộng…Muốn thế, người lãnh tụ phải có đạo đức rất cao mới hấp dẫn được quần
chúng đi theo mình; lại phải rất trí tuệ, rất tài năng trong phân tích tình
hình, khéo liên minh, liên kết, biết thêm bạn, bớt thù, giỏi nắm bắt thời cơ,
chớp thời cơ để giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Nếu
kể từ ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đến 1941 trở về gây dựng và
làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, rồi lãnh đạo cuộc kháng chiến 9
năm, kết thúc vẻ vang với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, là gần trọn
45 năm! Đó là một sự nghiệp vô cùng gian nan, cực khổ nhưng cũng vô cùng vinh
quang. Vào nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam không một nhân vật lịch sử nào có thể
so sánh với tầm vóc của Cụ được!
Như
một tấm huân chương có mặt phải, mặt trái; con người cũng có mặt ưu, mặt nhược,
mà như người ta thường nói: có khi nhược điểm lại là cái bóng nối dài của ưu điểm.
Vĩ nhân cũng chỉ là một con người, mà con người nào chẳng bị giới hạn bởi đời
sống trần thế. Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử nên cũng chịu sự ràng buộc
của điều kiện lịch sử. Lịch sử rất công minh trong phán xét ai là kẻ
có tội, ai là người có công. Chúng ta vững tin rằng năm tháng qua đi, hận thù
được xóa bỏ, dân tộc hòa hợp lại, lịch sử sẽ đánh giá đúng công lao, sự nghiệp
của Hồ Chí Minh:
“Anh
hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại, chiến sĩ tiên phong của phong
trào giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”./.
....
(
Trích )
Lê
Kỳ Sơn
*
Chú thích:
[1] Thư Enghels gửi Karl Kautsky ở Viên.
Xem Mác-Ănghen
Tuyển tập, t. V, nxb Sự Thật, Hà Nọi, 1983, tr. 684-85
[2] Dẫn lại theo A. Schenalder, trong
sách Chủ
thuyết của chúng ta, ấn hành tại CHDC Đức 1981, tr. 83.
[3] Xem Trần Dân Tiên giả, Hồ Chí Minh truyện,
Trương Niệm Thức dịch, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành 6-1949, bản Trung văn, tr.
90.
[4] Văn
kiện Đảng Toàn tập, t. 4, tr. 367.
[5] Xem Hồ Chí Minh truyện, sđd, tr.
90.
[6] Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Hồ Chí Minh Toàn tập,
xb lần thứ 2, t. 1, tr. 464-466.
[7] Bài nói chuyện của ông về cuốn sách mới
có tựa đề “Việt Nam Exposé and New biography of Hồ Chí Minh “, tại
Toronto, Canada, ngày 29-10-2003. Dẫn lại theo bản tin BBC, Ban Việt ngữ.
[8] Văn
kiện Đảng Toàn tập, t. 7 (1940-1945), Nxb Chính Trị Quốc Gia,
Hà Nội, năm 2000, tr. 113.
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 3, tr.
198.
[10] Dẫn lại theo P. Messmer, trong
cuốn Les
blans s’en vont, Albin Michel, 1998, p. 35. Nguyên văn tiếng
Pháp: “Plutôt
flairer la crotte des Français pendant cinq ans, que flairer celle des Chinois
pendant mille ans”!.
[11] Ý này Hồ Chí Minh nói 2 lần, lần đầu
với Trương Phát Khuê tại Liễu Châu 1944, lần 2 với các ký giả Pháp tại
Paris 1946.
[12] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam
1945-2000, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2002, tr. 91.
[13] Dẫn lại theo Tucker, Spencer
ed., The
Encyclopedia of the Vietnam War, NY, Oxford University Press,
2000, p. 422.
[14] Xem bài Thư từ Việt Nam,
ký tên LIN, trong Hồ
Chí Minh Toàn tập, t. 7, tr. 100.
[15] Trich tham luận của Yang Kuisong “Mao Zedong and the
War in Indochina” (Mao Trạch Đông và chiến tranh Đông Dương),
đọc tại Hội tháo Khoa học tại Hong Kong ngày 11,12 tháng 1 năm 2000. Dẫn lại
theo P. Brocheux, trong cuôn tiểu sử của ông về Hồ Chí Minh , Nxb Biographie
Payot, Paris, 2003, p. 245.
[16] Thư của GS Hoàng Xuân Hãn gửi Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 2 tháng 1 năm Bính Tý 1996.
* Tác phẩm “ Hồ Chủ Tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ ” của họa sĩ Tô
ngọc vân
* nguồn : net
* nguồn : net
một bài viết rất logic, hợp lý , khoa học và khách quan. Nó đã đưa các nhân vật của lịch sử trở về đúng với bối cảnh của lịch sử - chỉ có như vậy mới dễ tìm ra lời giải hợp lý nhất, gần với sự thật nhất cho các khúc mắc của ...lịch sử. Lần đầu tiên mình mới đọc được một bài viết có cách nhìn nhận về Cụ Hồ gần giống với cách nghĩ của mình.... tuy nhiên phải xin phép tác giả là mình chỉ pót phần đầu thôi ...còn phần sau thấy không thông lắm nên tự tiện lược bỏ. Rất mong tác giả thông cảm và bỏ quá cho!
Trả lờiXóa