" Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã viên mãn,
Việc cần làm đã làm xong,
Sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa "
- Đại Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh -
ĐỨC PHẬT THÍCH CA - LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI
Trước
khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc
nhận định dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng
tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sanh vào năm 624
trước Tây Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây Lịch. Sáu
trăm hai mươi bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu chọn năm sinh
của Đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy
tính đến nay là năm 2018 thì Đức Phật đã
ra đời được 2,642 năm và chiếu theo Phật lịch khởi đầu từ năm Đức
Phật viên tịch (năm 544 trước TL) thì Ngài đã nhập Niết Bàn được
2,562 năm.
Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Hoa,
Triều Tiên ... từ xưa đều làm Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng
Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành cho ngày Lễ Phật Đản là "Ngày
mồng Tám tháng Tư" đã lưu truyền hằng bao
thế kỷ, trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của
mọi người kể cả người theo hay không theo Phật giáo.
Vào thế kỷ thứ 20, trong kỳ Đại lễ kỷ niệm Phật Giáo Thế Giới tổ chức
tại Tích Lan năm 1954-1956, Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The
World Fellowship of Buddhists) quyết định lấy ngày trăng tròn 15 tháng 4
Âm lịch làm ngày kỷ niệm Đức Phật Đản Sanh. Đó là lý
do tại sao có 2 ngày kỷ niệm Đức Phật ra đời là Mồng 8 tháng Tư
Âm lịch (trước kia) và Rằm tháng Tư Âm lịch (bây giờ).
***
Nhân ngày Lễ
Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hãy cùng nhau
ôn lại tiểu sử của Ngài để có sự hiểu biết về một vĩ nhân
đã để lại cho hậu thế một kho tàng văn hoá Phật học vĩ đại
gồm 12,601 bài pháp thoại trong suốt 45 năm hoằng hoá, mà đã
2,562 năm trôi qua kể từ ngày Đức Phật viên tịch, nền minh
triết đó vẫn còn được dân gian trên thế giới kể cả những người
theo đạo Phật và những người không theo đạo Phật nghiên
cứu và học hỏi.
Trình bày
về tiểu sử Đức Phật, người Phật tử có hai cách nhìn. Một
là Đức Phật huyền thoại được ghi lại đầy đủ trong bộ
kinh Phật Tổ Thống Ký (Bắc Tông) Bộ kinh này diễn
tả rất chi tiết về sự kiện đản sanh của Đức Phật,
thậm chí còn kể rõ Ngài là một vị Bồ Tát ngự trên cõi trời, đản
sinh xuống cõi người. Cái nhìn thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để
lại thì Ngài là một người bình thường như bao nhiêu người khác,
có cha mẹ, vợ con, có những ưu tư về cuộc sống đau
khổ của con người nên muốn tìm phương pháp để thoát ra
khỏi cái vòng luân hồi sanh tử. Giai đoạn học đạo với 2 vị
đạo sĩ nổi tiếng thời ấy là đạo sĩ Alãra Kãlama và
Uddaka Ramãputta cũng như nhập đoàn với năm anh em đạo sĩ Kiều Trần
Như suốt 6 năm tu khổ hạnh cũng không có gì khác biệt giữa vị
Phật huyền thoại và vị Phật lịch sử.
Cho nên trong
bài viết này chúng tôi mạn phép lấy tựa đề là "Đức
Phật Thích Ca: Huyền Thoại (tôn giáo) và Lịch Sử". Bài viết
chỉ giới thiệu sơ lược về lịch sử đản sanh của Ngài,
chứ không khai triển các chi tiết khác, bởi chỉ có mấy ngàn chữ
theo quy ước này, thì làm sao có thể diễn đạt được
hết cuộc đời của một bậc đại Giác Ngộ như Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
ĐỨC
PHẬT TÔN GIÁO / HUYỀN THOẠI
Từ xưa đến
nay, muốn thành hình một tôn giáo ít nhất phải hội đủ
một số điều kiện như sau: Phải có một vị Giáo Chủ mang
nhiều huyền thoại nào đó khiến cho người ta kính phục tin theo, phải
có giáo lý, tín đồ và nghi lễ riêng biệt của tôn
giáo đó.
Về lịch
sử thì đạo Phật là một học thuyết, là một con đường tu
tập để dẫn tới sự khai mở trí huệ tâm linh do Đức
Phật vốn là một người bình thường đã tu tập và sáng
đạo, đi giáo hoá truyền lại những kinh nghiệm của mình cho
người khác.
Sau khi Đức
Phật viên tịch, theo thời gian sau đó đạo Phật nhập thế. So
sánh với những điều kiện nêu trên thì đạo Phật có thể
coi như là một tôn giáo, vì nó cũng có đủ các tiêu chuẩn như:
- Đạo
Phật có Giáo Chủ là Đức Bổn Sư
Thích Ca. Cuộc đời của Ngài cũng có nhiều huyền thoại. Chẳng hạn
như Ngài là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ tát Hộ Minh trên cung trời Đâu
Suất đã tu vô lượng kiếp, chỉ còn một kiếp nữa là sẽ thành Phật.
Từ cung trời Đâu Suất ngài nhìn xuống thế gian tìm Cha
Mẹ có đạo đức nhập thai xuống trần tiếp tục tu
hành một kiếp chót để đạt Chánh Quả.
- Đạo
Phật có giáo lý để giảng dạy cho tín đồ. Số lượng kinh
điển chia làm 2 loại: Nikãya (Nam Tông) và A-Hàm (Bắc Tông). Ở Việt
Nam chúng ta, kinh điển Phật Học được chuyển sang tiếng
Việt tuy chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng được khá nhiều. Nói chung,
tổng quát có 4 bộ Nikãya gồm 12,601 bản kinh, chưa kể Tiểu Bộ kinh.
Còn 4 bộ A-Hàm gồm 2,086 bản kinh. Cộng lại chúng
ta thấy Đức Phật để lại cho tín đồ 14,687
bài pháp thoại.
-
Hiện nay có khoảng hơn 800 triệu tín đồ theo đạo Phật trong
số trên 7 tỷ người trên hành tinh
này.
Trở
lại tiểu sử Đức Phật tôn giáo hay nói khác hơn là
huyền thoại về Đức Phật Thích Ca. Như đã nêu trên, Bồ
Tát Hộ Minh lúc bấy giờ đã tu từ bao nhiêu triệu kiếp rồi, chỉ cần một
kiếp cuối cùng là Ngài sẽ thành Phật. Lúc ấy Bồ
Tát ở trên cung trời Đâu Suất nhìn xuống thế
gian tìm gia đình thích hợp để xuống trần. Người Mẹ
mà Bồ Tát chọn nhập thai là Hoàng hậu Mahã Maya.
Chuyện kể Hoàng
Hậu Maya là một người đạo đức và tràn ngập lòng từ bi. Bà
là vợ của vua Tịnh Phạn thành Ca-Tỳ-La-Vệ, đã lớn tuổi rồi mà chưa có
con. Một ngày kia vào buổi trưa, Đức Hoàng hậu đang nằm nghỉ ngơi thì
rơi vào giấc mộng, bà thấy 4 vị thiên thần nâng 4 góc giường bay
thẳng lên đỉnh núi Hy-Mã-Lạp-Sơn. Nơi đây có một con voi trắng 6 ngà
từ trên trời bay xuống và chui vào hông phải của bà. Hoàng
hậu giựt mình tỉnh giấc, cảm thấy trong người mát
mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái. Ngay lúc đó là lúc Hoàng hậu
đã thọ thai.
Theo phong tục Ấn
Độ, người phụ nữ khi mang thai phải về quê cha mẹ của mình
để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra khỏi tập tục đó. Gần ngày khai hoa nở
nhụy, trên đường về quê cha mẹ, đến vườn Lâm Tỳ Ni ở
ngay biên giới của hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ
(Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn tuỳ tùng dừng chân nghỉ mát vì nơi
đây không khí dễ chịu thoang thoảng hương hoa nhẹ nhàng bay
trong gió. Đoàn tuỳ tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi
vào ven rừng ngắm cảnh, bà nhìn thấy một cây to có nhiều hoa nở rất đẹp mà
trong kinh sách ghi là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. (Tương
truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở trái
mùa, đó là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu sẽ có một vị giác ngộ
tương lai sắp ra đời.)
Về huyền thoại
của Đức Phật thì chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải
lên vịn vào cành cây Vô Ưu thì Thái tử ra đời, Ngài sanh từ
bụng mẹ qua bên hông phải. Lúc đó liền có 2 vị Phạm Thiên xuất hiện đỡ
lấy Ngài. Hai vòi nước một ấm một lạnh do 2 con rồng phun ra từ trên cao xuống
tắm cho vị hoàng tử mới sơ sanh.
Tích cũ kể
tiếp, Thái tử vừa lọt lòng mẹ đã bước đi bảy bước, mỗi bước có
một hoa sen nở để đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước thứ bảy Thái
tử đưa một tay chỉ ngón trỏ lên trời, một ngón tay chỉ xuống đất thốt lên
câu nói:
"Thiên
thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" nghĩa là "Trên
trời dưới đất chỉ có chân-ngã (tức
cái-Ta-chân-thật) là số một" ... rồi sau đó Ngài đã trở
lại đời sống như một đứa bé sơ sanh bình thường khác.
Khi Thái
tử sinh được 5 ngày, đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đặt tên cho
con trai là Siddhattha (tiếng Sanskrit) âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta, họ là
Gotama, âm tiếng Việt là Cồ Đàm. Tiếng Pãli là Siddharta Gautama. Ngài
thuộc dòng dõi quí tộc Thích Ca (Sakiya).
Theo phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời nhiều vị đạo sĩ Bà
La Môn học rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên và xem
tướng cho Thái tử. Có tám vị đạo sĩ lỗi lạc vào
cung xem tướng cho Thái tử. Bảy vị đưa lên 2 ngón tay
và giải thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ trở nên
vị Hoàng đế vĩ đại nhứt thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu
và đắc quả Phật. Riêng đạo sĩ trẻ tuổi tên là Kiều
Trần Như (Kondanna) thì bảo rằng sau này Thái tử sẽ xuất
gia và thành tựu quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trước đó, có
một vị đạo sĩ tên là A-Tư-Đà (Asita) là một người thân
tín của nhà vua tu hành trên núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, nhân chuyến hạ
sơn nghe dân gian loan truyền Hoàng hậu Maya vừa hạ sanh hoàng nam, nên ông xin
được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho
bồng Thái tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Đạo
sĩ A-Tư-Đà xem tướng Thái tử rồi tiên tri rằng về
sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại.
Nói xong, ông sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lão đạo sĩ đảnh
lễ con mình như vậy, đức vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo
sĩ, xá chào con mình.
Kế đó, đạo
sĩ bỗng dưng cất tiếng cười khan rồi lại khóc. Đức vua
và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui
buồn của đạo sĩ, hỏi tại sao, thì được đạo
sĩ ATư-Đà giải thích rằng ông vui mừng vì biết rằng về
sau Thái tử sẽ đắc quả Phật và ông khóc vì biết rằng không
bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh giới Vô
Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sanh vào).
Do đó ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí
tuệ cao siêu, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sau lễ đặt
tên Thái tử được 2 ngày, Hoàng hậu Mahãmaya đột nhiên qua
đời, trong kinh ghi bà được sanh về cung trời Đao Lợi. Lúc bấy
giờ, Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (em ruột của hoàng hậu) tình
nguyện nuôi dưỡng Thái tử cho đến khi Ngài khôn lớn.
LỄ HẠ ĐIỀN
Một sự
kiện lạ lùng xảy ra trong thời thơ ấu của Thái
tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh
thần của Ngài, là chiếc chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến sự Giác
Ngộ.
Câu
chuyện kể lại là vào hằng năm vua Tịnh Phạn có tổ chức lễ
Hạ Điền. Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban
cho mưa thuận gió hoà, trước khi mọi người bắt tay vào
việc đồng án.
Ở Ấn Độ,
người ta tin đủ các loại thần: nào là thần mưa, thần gió, thần lửa,
thần đất v.v... Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc
sống của con người đều do thần linh cai quản. Con
người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các
đấng thần linh.
Sáng ngày đức
Vua cùng quần thần áo mão chỉnh tề ra tận nơi hành lễ.
Các cung phi mỹ nữ đỡ thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi vào kiệu, lính
hầu khiêng kiệu đặt dưới bóng mát của một cội cây trâm lớn, nơi nghi
lễ sẽ diễn ra cách đó không xa. Mọi người đều hân
hoan chiêm ngưỡng cảnh nhà vua chủ lễ, các cung phi có
phận sự trông nom Thái tử cũng lén chạy đến gần để
xem.
Thái tử lúc
đó còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không ham thích cảnh tưng
bừng nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời kiệu xuống đất, thay vì
chạy nhảy vui chơi, Ngài lại chọn bóng mát dưới gốc cây trâm,
ngồi tréo 2 chân theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ,
mắt lim dim, chăm chú vào hơi thở, định tâm và tình
cờ nhập định đắc Sơ Thiền.
Đang
lúc mọi người bận rộn, vui vẻ với cuộc lễ, các cung
phi bỗng sực nhớ tới Thái tử, vội vã quay về với
phận sự, họ thấy Thái tử đang ngồi trầm ngâm thiền định.
Lấy làm lạ nhưng không dám quấy rầy, họ vội vàng đến trình tâu
tự sự cho vua Tịnh Phạn.
Đức vua Tịnh
Phạn hối hả đến nơi, thấy Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vẫn còn trong
tư thế nhập định. Đức vua đến trước mặt Thái tử, chắp
tay xá chào con, dịu dàng nói: "Hỡi này
con yêu quí, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con."
ĐỜI SỐNG THÁI
TỬ SĨ-ĐẠT-TA BỊ BƯNG BÍT
Vua Tịnh
Phạn thấy Thái tử còn nhỏ mà không ưa thích cuộc
sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc
thích khác, nên Ngài rất lo sợ, nhất là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của
các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ xuất
gia tìm đạo và đắc quả Phật.
Trong lòng
vua Tịnh Phạn không muốn con mình đi tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện
cho Thái tử trở thành người tài giỏi xuất chúng về mọi mặt, để
sau này trao ngai vàng cho Thái tử trị vì trăm họ.
Để đạt được mục đích của mình. Nhà vua bắt đầu lên kế
hoạch che đậy bưng bít không cho Thái tử thấy, biết... cuộc
sống thế gian vốn có nhiều đau khổ và phiền lụy.
Bao vây chung
quanh thái tử là cuộc sống vương giả, xa hoa, đàn ca hát xướng,
tràn ngập sự hoan lạc. Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy
giờ, Thái tử kết duyên cùng công chúa Da-Du-Đà-La
(Yasodharã), một người em cô cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống
cùng Công chúa, Thái tử hoàn toàn sống cuộc
đời nhung lụa, không hay biết gì về nỗi thống khổ của nhân
loại bên ngoài ngưỡng cửa cung điện, Ngài và Công
chúa Da-Du-Đà-La lại sinh được một đứa con trai, khiến cho vua Tịnh
Phạn hết sức vui mừng. Vua đặt tên cháu nội là La-Hầu-La (Rãhula)
XUẤT GIA
Suốt 29 năm sống
trong cung vàng điện ngọc, được sự chiều chuộng của tất cả mọi
người trong hoàng cung, nhất là vua cha và kế hậu cùng công
chúa xinh đẹp Da - Du-Đà-La luôn để ý chăm sóc,
tạo điều kiện thuận lợi, khiến cho Thái tử lúc nào cũng cảm
thấy vui vẻ hạnh phúc. Một mình Ngài được hưởng thụ mọi
thứ vinh hoa trên cõi đời này. Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara
Nikãya, phần 1, trg 145) có ghi lời Ngài kể cho đệ tử nghe như sau:
"Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi.
Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm
sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn
mình phô sắc phiá bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau
tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại
thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và áo của ta cũng may toàn bằng
hàng lụa bậc nhứt từ xứ Kasi chở đến.
"Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có
tàng lọng che sương đỡ nắng.
"Phụ hoàng
cũng kiến tạo riêng cho ta ba toà cung điện. Một để cho ta ở mùa
lạnh, một mùa nóng và một mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu tại một
biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ.
Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ
không phải như ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu
và thức ăn cũ."
Bấy lâu nay, trước mặt Thái tử chỉ là cảnh cung vàng điện
ngọc, cung phi mỹ nữ đàn ca xướng hát quanh
năm suốt tháng, là vợ đẹp, con thơ, là ngôi báu đang chờ đợi.
Nhưng đến một
ngày nọ, Thái tử nãy ra ý kiến xin phụ hoàng đi thăm
dân cho biết sự tình. Vua Tịnh Phạn nghĩ cũng đến lúc
cho Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta ra ngoài thành để biết đất nước của mình hùng
tráng, xinh đẹp như thế nào.
Vua Tịnh
Phạn liền ra lệnh cho dân chúng mọi nhà phải cấp tốc giăng đèn
kết hoa, trưng bày một cảnh thái bình thịnh vượng, người người phải
lộ nét vui vẻ hạnh phúc, nhất là trên những con
đường mà Thái tử sẽ đi qua.
Dù đức
vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống của dân chúng chu đáo như
thế nào cũng không qua mắt được Thái tử. Sau bốn chuyến du
ngoạn ngoài thành Thái tử đã quan sát và nhận
thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh
phúc, mà cuộc sống con người bị quay cuồng trong một vòng
tròn khốn khổ như hình ảnh một cụ già yếu ớt, mắt mờ, lưng
còng, tóc bạc, da nhăn, bước đi rung rẩy phải nhờ một cây gậy chống
đỡ. Một người bệnh hoạn đau đớn rên la ngoài đường trông
thật thảm thương. Một thây người chết sình thúi đưa lên giàn hoả thiêu đốt
trước sự khóc lóc sầu não của người thân còn sống. Bên cạnh đó những
người xung quanh chỉ lo chạy đua, tranh giành, chụp giựt, bon
chen hằng ngày, không hề có giây phút suy tư tìm cách thoát
khỏi cái vòng hệ luỵ sanh, già, bệnh, chết đó! Chừng như họ chịu
thua hoàn cảnh khắc nghiệt ập lên cuộc đời ngắn ngủi của họ
và cứ tiếp tục thả mình trôi lăn trong biển khổ định mệnh.
Riêng Thái tử thì không chấp nhận, Ngài nghĩ là mình phải
làm bất cứ giá nào để vượt khỏi sự sinh diệt. Rồi Ngài trầm
ngâm tư duy tìm lối thoát ra, nhưng không có cách nào hết.
Cũng may, ngoài
ba cảnh già, bệnh, chết... thì trong chuyến du ngoạn lần thứ
tư, Thái tử gặp được một vị đạo sĩ Bà La
Môn nghiêm trang khả kính. Hình ảnh thong
dong từ tốn của vị tu sĩ này đã mở cho Thái
tử một con đường mà Ngài hy vọng sẽ đạt
được giải thoát an vui.
Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikãya, Phần 1 - Ariyapariyesana Sutta số 26,
trang 163) có ghi lại sự suy nghĩ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta như
sau:
"Chính ta
phải chịu sanh, già, bịnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê chạy
theo những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sanh, lão, bịnh, tử,
phiền não và ô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của
những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái chưa thành đạt, cái
tối thượng và tuyệt đối của Niết Bàn".
Nói về cuộc sống tại gia, cũng trong kinh Trung A-Hàm, Phần 1, Mahãsaccaka
Sutta số 36, kể lại rằng:
"Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn
náu của bụi trần ô trược, nhưng đời của bậc xuất gia quả thật là cảnh
trời minh mông bát ngát! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt
thấy khó mà chịu được Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng
Liêng với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó."
Nhận
định rõ ràng những thích thú vật chất mà phần
đông tranh giành nhau đều không thể đem lại lợi ích bền
vững, chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất cả mùi danh bã lợi của trần
gian này mới thật là chân giá trị, nên Thái
tử Sĩ-Đạt-Ta dứt khoát rời bỏ cung điện với ngai vàng ngôi
vua đứng đầu thiên hạ, từ giã người vợ cao sang quyền
quý xinh đẹp và đứa con kháu khỉnh dễ thương vừa
mới chào đời để ra đi tìm Chân lý Tịch Tịnh trường
cửu. Hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi không phải Thái
tử ích kỷ chỉ nghĩ riêng cho bản thân mình, mà Ngài ra đi
để tìm pháp tu hầu tự cứu mình và cứu hàng hàng lớp lớp chúng
sanh đang lặn ngụp trong biển khổ, trong đó cho phụ hoàng, mẫu
hậu, vợ con của Ngài.
Từ một Thái
tử giàu sang vinh hiển tột bậc. Ngài trở thành một đạo
sĩ nghèo nàn, không tiền của, không cửa nhà, sống nhờ lòng
từ thiện của bá tánh thập phương. Ngài không có một nơi chốn nào nhất
định. Hôm nay, ngủ dưới gốc cây cao bóng mát, ngày mai tạm
trú trong một hang đá vắng vẻ hoang vu... Thế nào cũng được, chỉ cần có
thể che mưa đỡ nắng cho Ngài trong buổi trưa hè nắng gắt, hay
trong đêm khuya gió sương lạnh lẽo là được rồi. Chân không giày dép,
đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong sương
gió lạnh lùng như thế ngày này qua ngày khác. Tất cả xiêm y
chỉ là những mảnh vải vụn vặn ráp lại vừa đủ để che thân. Tất
cả tài sản chỉ là một bình bát để trì khất thực. Vật
thực và bộ y chỉ vừa đủ sống. Ngài tận dụng thời
giờ và năng lực trong việc tìm kiếm khám phá chân
lý.
TÌM CHÂN LÝ
Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đã nhiều
lần thất bại suýt mất mạng.
Lúc
đầu Ngài tìm cầu học đạo với 2 vị thầy Yoga nổi
tiếng thời đó là đạo sĩ Alãrã Kãlama và Uddaka Rãmaputta.
Học với đạo
sĩ Alãrã Kãlama, không bao lâu ngài đắc quả "Vô Sở Hữu
Xứ" nghĩa là "Chỗ không có gì". Đây
là trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận "không có
gì" chung quanh mình trong lúc toạ thiền cũng như sau khi xả
thiền. Trong tiến trình này, tuy tâm không dao động, không rối
loạn trước các đối tượng (vì đối tượng không là gì),
nhưng vẫn còn tự ngã và ý thức cho nên ngã và pháp đều có mặt. Kết
quả đã không đáp ứng được mục đích thoát khỏi sanh già
bệnh chết, nên Ngài từ giả vị Thầy ra đi tìm pháp khác, mặc dù vị Thầy
này đã yêu cầu Ngài ở lại để cùng hướng dẫn đồ chúng.
Ngài ra đi
tìm học đạo với vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rãmaputta
chỉ trong 3 tuần ngắn, Ngài cũng được vị thầy này ấn chứng cho
đã đạt được quả vị cao nhất của hệ thống thiền Yoga là
"Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ". Đây
là trạng thái "không tri giác, mà cũng không
không tri giác" nói cách khác là "hoàn toàn không nhận
thức điều gì đối với môi
trường xung quanh". Trong lúc đó niệm biết rõ
ràng không xuất hiện cho nên thiền giả có lúc chìm
đắm trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại định này cũng không
đưa đến thoát khỏi ly tham, cũng không đạt được đoạn
diệt, an tịnh, thượng trí và giác ngộ. Vì thế dù được vị thầy thứ hai
này ấn chứng và ngỏ ý truyền tất cả đồ chúng để
Ngài cai quản và hướng dẫn họ tu tập, nhưng ngài đã nhã nhặn từ
chối.
Một
lần nữa, Ngài từ giã vị thầy thứ hai để ra đi.
Lang thang qua
xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp đạo sĩ Kiều Trần Như và bốn anh em. Cùng
với họ, Ngài bắt đầu tu khổ hạnh. Thời đó các vị tu sĩ quan
niệm là phải đì thân thật khốc liệt để cảm giác đau đớn nổi
lên trên thân thì mới đạt được đạo quả. Các tu sĩ thời đó
cho rằng đây là con đường duy nhất không còn con
đường nào khác để đạt được Niết Bàn. Trong
vòng 6 năm đạo sĩ Cồ Đàm nổi tiếng khắp nơi về
việc tu hành khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, con bò, có lúc
Ngài ngủ trên cỏ gai nhọn, ngủ một giò, không tắm, không cạo râu, không ăn no
uống nhiều, chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày. Có khi vào giữa đêm khuya lạnh lẽo
Ngài lại trầm mình xuống dòng sông, nước lạnh thấu xương hay nằm chịu
đựng cho tuyết rơi phủ cả thân mình. Ngài tự khép mình vào nếp
sống cực kỳ kham khổ, cho đến một ngày kia thân
hình tráng kiện của Bồ Tát chỉ còn da bọc bộ xương, Ngài
xứng danh là đệ nhất khổ hạnh, được mọi người tôn xưng
là Thánh nhân.
CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
Tu khắc nghiệt
như thế mà cũng không tìm ra được manh mối gì. Tiếc thay, càng
đì thân khốc liệt bao nhiêu thì Ngài càng xa rời mục tiêu đi
tìm Niết Bàn bấy nhiêu. Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng
thái Niết Bàn là như thế nào, Ngài chỉ nghĩ đó là trạng
thái không phiền não nếu đã tận diệt mọi hình thức ái
dục.
Sau 6 năm
dài đày đọa thân thể, tuy thân của Ngài càng lúc càng tiều tuỵ, hai
mắt như hai hố thẳm, da nhăn nheo, tóc lông đụng tới đâu thì rụng tới đó, Ngài
gầy ốm đến nỗi da bọc xương, đi đứng không vững, nhưng tâm ngài vẫn không
bị xao động, cho đến một ngày kia Ngài té xỉu ở bìa
rừng, may nhờ cô bé chăn cừu cứu sống bằng chén bột sữa.
Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của
pháp tu khổ hạnh. Ngài nhận ra thân này là quý, vì
thân kiệt quệ, mệt mõi thì tinh thần cũng kiệt quệ mệt
mõi không thể phát sáng, Ngài liền dứt khoát bỏ lối tu khổ
hạnh cực đoan này, cũng như trước kia Ngài đã từ bỏ lối
sống cực kỳ lợi dưỡng sung sướng nơi hoàng cung, vì
Ngài cho rằng đời sống lợi dưỡng làm chậm trễ tiến
bộ đạo đức.
Bây giờ Ngài
chọn con đường độc lập, tức con đường trung đạo, không lợi
dưỡng cũng không khổ hạnh, Ngài nhận ra mình phải biết quý
cái thân này để mượn nó mà tu.
Ngài nhớ
lại buổi lễ Hạ Điền năm xưa, khi còn thơ ấu, trong lúc phụ hoàng
và mọi người chăm chú cử hành lễ hội với các trò
vui, Ngài đã ngồi thế nào dưới bóng mát mẻ của cây trâm, tham
thiền nhập định và đắc được Sơ Thiền. Càng tư duy, ngài
càng thấy rõ đây mới thật là con đường tu tập dẫn đến Giác
Ngộ.
Ngài ngẫm
lại thời gian khổ hạnh trong mấy năm qua, dù không đạt
được mục tiêu tối hậu, nhưng nhờ pháp này mà Ngài đã tự chiến thắng
được chính mình, chiến thắng được lòng tham dục: tài, sắc, danh,
thực, thuỳ. Ngài cũng đắc được nhĩ thông nghe
được chư thiên nói chuyện về Ngài.
Ngài nhận
ra rằng với tấm thân mòn mõi khiến tâm không thể hoàn
toàn sáng suốt. Bây giờ cái Ngài cần là một sức khoẻ thích
nghi rất cần thiết để đạt tiến bộ tinh thần,
nên nhất định không nhịn đói nữa mà nhận bánh Kheer của cô
Sujatà cúng dường. Sau khi ăn uống tắm rửa sạch sẽ, ngài đến gặp
lại các bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như để kể cho
các vị ấy biết ý định ngưng pháp tu khổ hạnh vì pháp này
không giúp ích cho mục tiêu giải thoát của Ngài. Năm vị tu
sĩ này thấy Ngài đột nhiên thay đổi phương pháp tu thì
lấy làm thất vọng nói rằng: "Đạo sĩ Cồ Đàm đã
trở lại ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng và đã quay về
với đời sống lợi dưỡng" rồi họ rời bỏ ngài, đi về phía Vườn
Lộc Giả (Vườn Nai / Sarnath).
THÀNH ĐẠO
Năm
người bạn đồng tu đã rời bỏ Ngài ra đi. Còn lại một mình, một
cảnh cô độc, Ngài đi dọc theo bờ sông Ni-Liên-Thiền hướng về khu rừng cây
rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng. Tại nơi đây
vắng vẻ, không bóng người qua lại, Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau
này người ta gọi cây đó là cây Bồ Đề. Ngài trải cỏ Kusha làm toạ
cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu không chứng
đạo dù thịt nát xương tan Ngài cũng sẽ không rời khỏi cội cây này. Nhớ lại
pháp thở khi còn nhỏ, bây giờ thử lại Ngài đạt được kinh
nghiệm khi xưa, nếu không nói tâm mỗi lúc mỗi yên lặng hơn
nhiều, vì thế Ngài nhất quyết chọn pháp này để tu cho
đến khi giải thoát. Ngài bắt đầu chú tâm vào hơi thở,
rồi buông thả hơi thở, quay vào trong tâm, lặng lẽ thiền
định để tìm ra những chân lý . sâu thâm
diệu hầu giải quyết bài toán phức tạp sinh già bệnh
chết.
Sau 49 ngày
đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đã lần lượt nhập Sơ
Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Khi tâm
Ngài hoàn toàn định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, bình tĩnh... hướng về tuệ giác liên quan đến sự nhớ
lại những kiếp quá khứ của chính mình. Tất cả những gì xảy ra từ
nhiều kiếp quá khứ hiện ra trong nhận thức của ngài
như một cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết đi, tái sanh.... Hết đời
này qua đời khác...Làm con người này, làm con người kia...
như thế nào Ngài đều rõ biết. Đây là tuệ giác đầu tiên
ngài chứng ngộ vào lúc canh Một của đêm thành đạo, gọi
là Túc Mạng Minh.
Phá tan được lớp vô
minh, tự mình nhìn ra được vô số kiếp của mình. Bây giờ ngài mới
hướng tâm về tri giác (hiểu biết) hiện tượng Sanh, Diệt
của chúng sanh. Với huệ nhãn tinh khiết và siêu phàm,
Ngài thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ngài biết người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh...v.v... Tất cả đều trải qua diệt và sanh, sanh và diệt,
tuỳ hành vi tạo tác hạnh nghiệp tốt xấu thiện ác của mỗi
người mà thọ sanh luân hồi trong 6 cõi: trời, người, Atula, súc
sanh, ngạ quỹ hay địa ngục... Như vậy với Thiên Nhãn Minh,
ngài mục kích sự phân tán và sự cấu hợp trở
lại của chúng sanh. Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn
Minh trong canh giữa của đêm thành đạo.
Tiếp theo, ngài
hướng tâm thanh tịnh về tuệ tri hiểu biết sự chấm
dứt các pháp trầm luân. Ngài biết như thật "đây là
khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt
khổ, đây là con đường đưa đến diệt khổ". Ngài
biết như thật "đây là những ô nhiễm (lậu hoặc), đây
là nguyên nhân của các lậu hoặc, đây là sự diệt trừ những lậu
hoặc, đây là con đường diệt trừ các lậu hoặc". Lần
lượt ngài nhận thức tiếp : "Đây là phiền não, đây
là nguyên nhân của phiền nào, đây là sự chấm dứt phiền
não, đây là con đường đưa đến chấm dứt phiền não"..
v.v... và. v.v... Nhận thức như thế, tâm Ngài thoát
khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát
khỏi hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống)
và thoát khỏi vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh). Ngài
chứng Lậu Tận Minh khi trời hừng sáng. Bấy giờ Ngài biết
mình đã được giải thoát, Ngài nhận thức rằng: "Tái
sanh đã chấm dứt, đời sống
Phạm Hạnh đã viên mãn, việc cần
làm đã làm xong, sau đời hiện tại không
có đời sống nào khác nữa" (Kinh Trung
Bộ 1, Đại Kinh Saccaka, số 37, trg 541-543)
Màn vô
minh đã hoàn toàn giải toả và trí tuệ phát sanh. Đêm
tối đã tan và ánh sáng tràn ngập đến. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35
tuổi. Suốt 6 năm dài đăng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng không
được sự hướng dẫn từ một năng lực siêu phàm nào, cô
độc một mình, tự nỗ lực chiến đấu chính mình và tự mình thắp
đuốc mò mẫm đi trong đêm tối. Kết quả đã tận diệt mọi ô
nhiễm (lậu hoặc) chấm dứt mọi tiến trình tham
ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở
thành một vị Phật lịch sử.
Đức Thích
Ca Mâu Ni là một vị Phật lịch sử. Vì sau mấy ngàn năm, tư liệu sử
sách vẫn còn để lại:
Cha: Đức Vua Tịnh Phạn nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ)
Mẹ: Hoàng hậu Mahãmaya (băng hà sau khi sanh Thái tử 7 ngày)
Mẹ
kế: Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (là dì ruột nuôi Thái
tử cho đến khi khôn lớn)
Ngày sanh: Rằm tháng 4 Âm lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước
Nepal
Thành hôn với công chúa Da-Du-Đa-La: Năm 16 tuổi
Đến 29 tuổi có con đầu lòng là: La-Hầu-La
Bỏ hoàng cung xuất gia: Ngày 8 tháng 2, vào năm 29 tuổi
Thành
đạo: Ngày 8 tháng 12. Năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ
Hoằng
pháp: 45 năm
Nhập
Niết Bàn : Rằm tháng 2, thọ 80 tuổi tại Kusinãrã, Ấn Độ.
Hiện nay, vẫn
còn các thánh tích (Tứ Động Tâm) ghi lại những nơi Đức
Phật đã đi qua do các nhà khảo học người Anh tìm thấy. Như Lâm Tỳ
Ni là nơi Đức Phật đản sanh. Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha
Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya) là nơi Đức Phật thành
đạo. Vườn Lộc Giả, bây giờ là Sarnath, Ấn Độ, là nơi Đức
Phật chuyển pháp luân đầu tiên, giảng bài kinh Tứ Diệu
Đế và Vô Ngã Tướng độ cho 5 anh em Kiều Trần
Như đắc quả A-La-Hán. Nơi Đức Phật diệt độ là Kusinãrã
(bây giờ gọi là Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn Độ).
KẾT
LUẬN
Đức
Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo chủ của tín đồ Phật
giáo ở cõi Ta Bà này. Cuộc đời của Ngài cũng có một
huyền thoại rất hy hữu. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý giá
trị. Đạo Phật có khoảng trên 800 triệu tín
đồ trên thế giới (hơn 7 tỷ người) và đạo Phật cũng
có hệ thống nghi lễ hẵn hoi.
Như vậy, một
mặt đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo,
mà hễ tôn giáo thì người Giáo chủ ấy có nhiều huyền thoại
về cuộc đời cho nên chúng ta mới có Đức
Phật Huyền Thoại. Nhưng ngược lại trong kinh điển Phật
giáo để lại người ta thấy rằng Ngài không hề nhận mình là Giáo
Chủ mà chỉ là người Thầy trao truyền những phương pháp tu tập,
những kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua cho những người
muốn tu tập để thoát khổ giải thoát, cho nên người ta tôn xưng Ngài
là vị Phật lịch sử duy nhất trên cõi đời này. Những danh
hiệu cao quý khác do tín đồ của Ngài cung kính tôn
xưng mà thôi.
Nhân
ngày lễ Phật Đản chúng ta nghĩ tưởng về người khai sáng
ra đạo Phật qua 2 hình ảnh theo 2 truyền
thống: Lịch Sử và Huyền Thoại. Truyền thống nào cũng
mang lợi lạc cho chúng sanh.
Chúng
ta biết rằng Đức Phật khi còn tại thế đã không nhận
mình là thần linh, là thượng đế, nên Ngài không ban phát phép lành
hay cứu rổi cho bất cứ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua sự
tự tu, tự chứng của Ngài, cho những ai tin và theo học. Học
thuyết đó giá trị chủ yếu ở các khái niệm thiện
tâm, nhân ái và bình đẳng. Đó là về mặt cộng đồng, xã
hội. Về mặt tâm lý Ngài để lại một kinh nghiệm tu
tập để con người thoát khỏi sự kiềm toả của sự đau
khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi
là Niết Bàn.
Đối
với giáo lý nhà Phật thì Niết Bàn chính là trạng
thái tĩnh lặng, trong sáng, không dính mắc với mọi thứ trên đời này,
nhưng vẫn luôn sáng suốt vì trí huệ bát nhã đã được khai mở
phát huy. Người nào kinh nghiệm được trạng thái Niết Bàn là
người đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy Niết Bàn không
phải ở đâu xa mà nó ở ngay trong tâm của người liễu đạo bây
giờ và ở đây!
Viết về cuộc
đời của Đức Phật không chỉ vài trang giấy là đủ cho nên bài viết
này tạm thời được khép lại nơi đây. Với tấm lòng kính quý của người học
Phật, chúng tôi chỉ mong trang trải chút hiểu biết sơ
cơ của mình để cùng với mọi người ôn lại tiểu sử ngắn
gọn của Đức Bổn Sư Thích Ca về hai mặt Lịch Sử và Tôn
Giáo nhân mùa Phật Đản, Phật lịch 2562.
Kính chúc tất cả
chư liệt vị thân tâm thường an lạc trong ánh hào
quang của chư Phật.
Thích Nữ Hằng Như
* Chú thích của BBT
TVHS
Đức Phật đã nhiều
lần nói về Trung Đạo. Nếu cho rằng Trung Đạo là thoát xa cả hai
cực đời sống vật chất xa hoa và ép xác khổ
hạnh thì đó chỉ là thuyết tương đối. Trung Đạo cũng không
có nghĩa là trung dung giữa hai thái cực tu
hành. Trung Đạo, hiểu đúng lời Phật dạy là xa
lìa tất cả các biên kiến như Ngài dạy trong Kinh Chánh
Kiến hay còn gọi là Kinh Ca Chiên Diên. Trung có nghĩa là Chính.
Chính có nghĩa là đúng. Chính kiến là cách nhìn đúng, là tương phản
với từ “biên kiến”, vượt qua sự phân biệt hữu và phi
hữu, có không.
Trong các thuật
ngữ Phật Giáo, có lẽ không có thuật ngữ nào mà người học
Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu
như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như
hai thuật ngữ “Chân Đế” và “Tục Đế” hay còn gọi “Chân lý Tuyệt đối”
(Paramatha Sathya) và “Chân lý có tính Quy ước” (Sammuti Sathya). Bồ Tát
Long Thọ đã dựa trên Kinh Kaccāyanagotta để thuyết
về Trung Đạo. Trong kinh này Đức Phật giảng cho tu sĩ Kaccāyanagotta
về thế nào là chánh kiến. Để quý độc gỉa tiện nghiên cứu tìm
hiểu nội dung văn kinh, chúng tôi giới thiệu ba bản
dịch Việt. Bản dịch đầu của HT. Tuyên Pháp, bản dịch 2 của hệ Pali do HT. Thích Minh
Châu dịch và bản dịch 3 của hệ Sanskrit do TT. Thích Đức Thắng và Thích
Tuệ Sỹ dịch.
KINH CHÁNH KIẾN
Đây là những điều mà
tôi đã được nghe, thời Đức Phật cư trú tại ngôi nhà khách ở
trong rừng, thuộc bộ lạc Na-lợi. Lúc ấy có tôn
giả Tán-đà Ca-chiên-diên đến thăm Người. Sau khi đảnh lễ dưới
chân Đức Phật, tôn giả ngồi xuống một bên và thưa rằng: O
- Bạch Đức Thế
Tôn, Thế Tôn thường nói tới danh từ “chánh kiến.” Cúi xin
Người giảng giải ý nghĩa của từ này cho chúng con.
Phật bảo tôn
giả Tán-đà Ca-chiên-diên rằng:
- Người đời thường
nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là
hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm. Vì
vướng vào tri giác sai lầm đó cho nên mới kẹt vào hoặc “ý niệm
có”, hoặc “ý niệm không.” Này Tán-đà Ca-chiên-diên! Phần lớn người đời đều bị
kẹt vào chấp mắc và bảo thủ. Người không bị kẹt vào chấp và thủ thì không
còn nắm giữ và vọng tưởng về cái ngã nữa. Người ấy biết cái khổ,
chẳng hạn, khi có điều kiện phát sinh thì nó phát sinh, khi hết điều
kiện tồn tại thì nó tiêu diệt. Người ấy không còn nghi
hoặc gì nữa cả. Cái thấy của người ấy không do ảnh
hưởng của kẻ khác mà có, trái lại do chính người ấy tự đạt
được. Cái thấy ấy gọi là chánh kiến. Đó là cách trình bày chánh
kiến của Như Lai.
Người có tri
kiến chân chính khi quán sát về sự sinh
khởi của thế gian không thấy thế gian là không. Người
có tri kiến chân chính khi quan sát về sự hoại
diệt của thế gian không thấy thế gian là có. Này
Tán-đà Ca-chiên-diên! Chấp có là một biên kiến, chấp
không là một biên kiến khác. Như Lai lìa hai biên
kiến đó mà thuyết pháp một cách trung đạo. Nghĩa là: “Cái
này có vì cái kia có, cái này sinh vì có cái kia sinh.” Từ vô minh mà
có hành, từ hành mà có thức, từ thức mà có danh sắc, từ danh
sắc mà có lục nhập, từ lục nhập mà có xúc, từ xúc mà có
thọ, từ thọ mà có ái, từ ái mà có thủ, từ thủ mà có hữu, từ hữu mà có
sinh, từ sinh mà có lão tử, và khổ đau chồng chất thành
khối.
Nếu vô
minh không còn thì hành không còn, hành không còn thì
thức không còn, thức không còn thì danh sắc không còn, danh
sắc không còn thì lục nhập không còn, lục nhập không
còn thì xúc không còn, xúc không còn thì thọ không còn, thọ, không còn thì ái
không còn, ái không còn thì thủ không còn, thủ không còn thì hữu
không còn, hữu không còn thì sinh không còn, sinh
không còn thì lão tử không còn và nguyên khối khổ đau chồng
chất kia bị tiêu diệt.
Phật nói kinh này
xong, tôn giả Tán-đà Ca-chiên-diên thấy tâm bừng sáng giải
thoát, cắt đứt được các hệ lụy và chứng quả A-la-hán.
Nam-mô Bổn
Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần, xá 3 xá)
HT.Tuyên Pháp dịch
Việt
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
XV.
Kaccàyanagotta: (Ca-chiên-diên Thị) (Tạp 12.19 Đại 2,85c) (S.ii,16)
1) Trú ở Sàvatthi
(Xá-vệ)...
2) Rồi Tôn
giả Kaccàyanagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Kaccàyanagotta bạch Thế Tôn:
-- "Chánh kiến,
chánh kiến", bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Bạch Thế
Tôn, cho đến như thế nào là chánh kiến?
4) -- Này
Kaccàyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực
đoan này: có và không có.
5) Này Kaccàyana, ai
với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới tập khởi, vị
ấy không chấp nhận thế giới là không có. Này Kaccàyana, ai
với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn diệt, vị ấy không
chấp nhận thế giới là có.
6) Này
Kaccàyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói
buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú
trước, chấp thủ phương tiện ấy, không
chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp trước,
không trú trước, vị ấy không có nghĩ: "Đây là tự ngã của tôi". Khi khổ
sanh thời xem là sanh, khi khổ diệt thời xem là diệt; vị ấy không
có nghi ngờ, không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây là của
vị ấy. Cho đến như vậy, này Kaccàyana là chánh tri kiến.
7) "Tất cả là
có", này Kaccàyana, là một cực đoan. "Tất cả là không có"
là cực đoan thứ hai.
Xa
lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như Lai thuyết
pháp theo trung đạo.
8) Vô
minh duyên hành. Hành duyên thức... (như trên)... Như vậy
là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly
tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên các hành
diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
HT.Thích Minh Châu
dịch Việt
KINH TẠP A
HÀM Quyển 12
KINH 301.
CA-CHIÊN-DIÊN [Pāli, S. 12. 15. Kaccāyanagotta]
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở
tại nhà khách trong rừng sâu, xóm Na-lê[67]. Bấy giờ Tôn
giả Tán-đà Ca-chiên-diên[68] đi đến chỗ Phật, đảnh lễ, ngồi qua một
bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn,
như Ngài nói ‘Chánh kiến.’ Vậy thế nào là chánh kiến? Bạch Thế Tôn, vì
sao Thế Tôn thi thiết chánh kiến?”
Phật bảo Tán-đà
Ca-chiên-diên:
“Thế gian có
hai sở y, hoặc có hoặc không[69], bị xúc chạm bởi thủ. Do bị xúc chạm bởi
thủ nên hoặc y có hoặc y không. Nếu không có chấp thủ này
vốn là kết sử hệ lụy của tâm và cảnh[70]; nếu
không thủ, không trụ, không còn chấp ngã, thì khi khổ sanh là
sanh, khổ diệt là diệt, đối với việc này không nghi, không hoặc,
không do người khác mà tự biết; đó gọi là chánh kiến. Đó gọi là chánh
kiến do Như Lai thi thiết. Vì sao? Thế gian tập khởi,
bằng chánh trí mà quán sát như thật, thì thế
gian này không phải là không[71]. Thế gian diệt, bằng chánh
trí mà thấy như thật, thế gian này không phải là có. Đó gọi
là lìa hai bên, nói pháp theo Trung đạo. Nghĩa là, ‘Cái này có nên cái kia
có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là, duyên vô minh nên có
hành,… cho đến, thuần một khối khổ lớn. Do vô minh diệt nên hành
diệt,… cho đến, thuần một khối khổ lớn diệt.’”
Phật nói kinh này
xong, Tôn giả Tán-đà Ca-chiên-diên nghe những gì Phật đã dạy, chẳng
khởi các lậu, tâm được giải thoát, thành A-la-hán.
TT. Thích Đức Thắng và
Thích Tuệ Sỹ dịch Việt
*Một trong những tượng
Phật Thích Ca truyền thống cổ nhất. Gandhara ( càn Đà ) thế kỷ đầu công nguyên
tại Bảo tàng Quốc gia Tokyo