Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017

Tàn giấc mơ hoa ...

Tàn giấc mơ hoa
...


U HỒNG
Em tên Hồng. Mình gặp lại em khi em đang đèo con gái đi học. Hồi mình học đại học mẹ em bán hàng nước ở cổng trường, bầy con trai khóa mình vì em, mà đồng loạt gọi mẹ em là “mẹ” xưng “con”. Thế rồi khi em lấy chồng, em bỏ lại một bầy ngơ ngác…
Con gái em giờ tuổi đã mười mấy, xinh như em thời xưa, mình buột miệng gọi em:

 - “U Hồng”
Em lườm:
 - “Đồ xỏ lá!”
Lúc chia tay em, mình nói:
- Hình ảnh u chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí anh!

- !!!
Đinh Vũ Hoàng Nguyên

Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017

Nhớ mãi không quên


NHỚ MÃI KHÔNG QUÊN
Chim khách có lần đã giúp đỡ cho một người, sau đó rất lâu, người nọ đối với chim khách vẫn cảm kích biểu lộ tình cảm. Chim khách không tránh khỏi dương dương tự đắc, nó nói với Thượng Đế :
- " Ngài coi, người ấy vẫn cứ nhớ mãi không quên ân đức của con "
Thượng Đế thở dài ... nói :
- " Nhớ mãi không quên ... chính là bản thân con đó "
...
Hạnh Lâm Tử

Gió trút lá, cho mùa thu thay áo
Nhuộm một đời vàng những đam mê
...

Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2017

Quyền Sư

 " Phải nhớ rằng trên đầu ta chỉ có chính nghĩa mà thôi "
- Quyền Sư Ngô Sĩ Quý -



ĐẠI VÕ SƯ VĨNH XUÂN QUYỀN NGÔ SĨ QUÝ (1922 - 1997)
Võ sư Ngô Sĩ Quý sinh ngày 22/10/1922 tại Hà nội trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc. Thân phụ là Cụ ông Ngô Dưỡng Chính (1889 - 1943) và Thân mẫu là cụ NguyễnThị Tâm (1900 - 1987). Ông là con thứ 3 trong gia đình 8 anh chị em. Thủa nhỏ, ông sống với gia đình tại số nhà 97 Mã Mây, một trong những con phố sầm uất nhất thuộc khu “36 phố phường Hà Nội” xưa.
Thông minh, hiếu động, mạnh mẽ, dũng cảm, thẳng thắn, cương trực, hào hiệp, đa tài, vị tha là những phẩm chất cao đẹp của người tuổi Tuất mà bẩm sinh đã vận vào ông. Do vậy luôn sẵn sàng che chở, động viên, nghĩ cho người khác hơn là nghĩ cho bản thân luôn là nguyên tắc sống trong suốt cuộc đời 76 mùa xuân của ông.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, ông theo học tiểu học ở Hà Nội, lâu nhất là trường Thăng Long. Ông học đến hết thành chung thì bỏ không học tiếp. Do sớm có năng khiếu âm nhạc nên từ nhỏ ông đã rất say mê và thường xuyên đi nghe các ban nhạc nhà thờ biểu diễn nhạc cổ điển phương tây. Tình cờ được một cha cố ở Nhà thờ Lớn Hà Nội chỉ dẫn, ông theo học và không lâu trở thành một tay violin có tiếng trong ban nhạc Nhà thờ ở Hà Nội thời đó với những bản serenade (dạ khúc) đi vào huyền thoại nền âm nhạc cổ điển như: Khúc nhạc buồn, Ave Maria, Trăng chiều, Nightingale (Chim họa mi) của các nhạc sỹ thiên tài Chopin, Schuber, Bach, .v.v
Khoảng 1938, với biệt tài chơi violin, nhân duyên đã đưa ông đến với ông Cam Túc Cường, một cây ghitar có tiếng đang rất say mê âm nhạc phương tây, lại đang thụ giáo Vĩnh Xuân Quyền của một người gia sư trong nhà. Gia sư đó chính là cụ Nguyễn Tế Công, mà ngày nay các môn phái Vĩnh Xuân Quyền ở Việt nam suy tôn là sư tổ của Vĩnh Xuân Quyền Việt Nam. Lúc đó cụ Tế Công đang là gia sư của gia đình ông Cam Túc Cường, một gia đình thương gia giàu có người Hoa, sống ở phố Hàng Buồm, Hà nộị. Nhân duyên này đã ngẫu nhiên kết tụ nên tình huynh đệ, rồi tình thầy trò giữa 3 con người đó lại với nhau qua việc truyền thụ và luyện tập cùng nhau trong quãng thời gian dài từ cuối những năm 30 đến những tháng ngày Cách mạng tháng 8/1945. Trong quãng thời gian đó, các phẩm chất đặc biệt bẩm sinh đã giúp ông Quý tiếp thu nhanh chóng và khá đầy đủ triết lý cũng như kỹ thuật vận động được cụ Tế Công trực tiếp truyền thụ. Không có chủ đích, song đây chính là quãng thời gian định hình, đặt nền móng cho sự nghiệp võ thuật của ông để 20 năm sau (quãng từ 1968), ông trở thành người có công lớn trong việc gây dựng, phát triển, truyền bá tinh hoa Vĩnh Xuân Quyền, môn võ bí truyền, đứng hàng đầu trong thế giới võ thuật Trung Hoa, để lại cho đời một kho tàng triết lý và vận động, tinh thần và kỹ thuật của Vĩnh Xuân Quyền, được các lớp thế hệ học trò Việt nam và nước ngoài ngưỡng mộ, tôn vinh và theo đuổi.
Sau ngày Cách mạng tháng 8, thầy trò Tế Công ít có dịp bên nhau. Một lần cụ Tế Công cho người đánh tiếng mời ông Quý theo cụ vào Nam, nhưng ông đã từ chối để chọn con đường mà bất kỳ thanh niên Hà Nội chân chính nào khi đó cũng đi đó là: theo tiếng gọi của non sông đất nước. Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, ông gia nhập tự vệ chiến đấu khu Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà Nội, với chức trách làm liên lạc - cần vụ cho Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng (sau này là Thượng tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam). Ông tham dự các trận chiến đấu ác liệt bảo vệ từng góc phố của thủ đô Hà nội trong suốt 60 ngày đêm khói lửa, rồi cùng đồng đội trong Trung đoàn Thủ đô rút lui vào đợt cuối cùng ra vùng An Toàn Khu để đi vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Từ 1947 đến 1952, ông là chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô rồi chuyển sang phụ trách Thiếu sinh quân của Đại đoàn 308.
Từ đầu 1953 đến 4/1956, ông được cử sang làm giáo viên âm nhạc của Trường Thiếu sinh quân Viêt Nam đầu tiên tại Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Chủ tịch Mao trạch Đông đã tặng ông chiếc đàn violin trong một dịp tới thăm Khu học xá. Chiếc đàn đã theo ông đi hết cuộc đời ông, hiện đang được các cháu ông giữ gìn bảo quản sử dụng như một kỷ vật của gia tộc.
Thời gian công tác tại khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc, có điều kiện tiếp xúc với giới võ thuật Trung Quốc, ông phát hiện ra môn võ được cụ Tế Công truyền thụ bấy lâu chính là Vĩnh Xuân Quyền, một môn võ có lịch sử lâu đời được đánh giá rất cao ở Trung Quôc .Cũng từ đó, trong ông nung nấu ý tưởng tìm hiểu, nghiên cứu làm sáng tỏ, sâu sắc thêm những tinh hoa cả về triết lý lẫn kỹ thuật vận động của môn phái này để có thể truyền lại một cách khoa học cho các thế hệ trẻ Việt Nam sau này.
Đầu năm 1956, sau khi về nước, ông tiếp tục công tác giảng dạy âm nhạc tại trường Trung cấp nhạc họa Trung ương và Đại học sư phạm Hà Nội đến 1960, rồi chuyển sang làm cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo lĩnh vực Văn-Thể-Mỹ của Vụ Sư phạm thuộc Bộ Giáo dục. Cùng với công vệc này, từ 1968, ông bắt tay vào thực hiện mong ước cháy bỏng của đời mình là gây dựng lại hệ thống triết lý và kỹ thật vận động, xây dựng phát triển và truyền thụ tinh hoa của Vĩnh Xuân Quyền cho các thế hệ trẻ Viêt Nam. Những học trò đầu tiên đến với Vĩnh Xuân Quyền chi phái Ngô Sĩ Quý cuối những năm 1960 đầu 1970 có thể kể đến như Bác sĩ Hoàng Quốc Toàn, Bác sĩ Dương Quốc Tuấn, sau đó là nhà giáo Vũ Huyến, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, ông lang Lương, cô Loan; các thế hệ tiếp theo vào thập kỷ 80 thành danh có thể kể đến như Đinh Diệp Hoà, Bùi Chương, Phạm Hồng Dương, Trần Hậu Tuấn, chị Minh, anh Tết, Trần Việt Trung, Nguyễn Tiến Long, Võ Hồng Nam, Võ ĐIện Biên, Nguyễn Đức Hiếu, Nguyễn Đức Dũng, Nguyễn Nam Vinh, Trần Nghị, cuối thập kỷ 80, đầu 90 là các anh Lê Hoài Nam, Phạm Hải Bằng, Vũ Khắc Trí, Nguyễn Minh …
Hiện có khoảng trên 20 võ đường/CLB Vĩnh Xuân chi phái Ngô Sĩ Quý đang hoạt động trong nước tại Hà Nội như Học phái Dưỡng sinh Nhu quyền, CLB Vĩnh Xuân Ngô gia, CLB Vĩnh Xuân Tăng Bạt Hổ, CLB Vĩnh Xuân LiveCare, CLB Vĩnh Xuân Ngô Gia Hoàng Pháp – thầy Tạ Đình Khiêm, Vĩnh Xuân Đường Nguyễn Khắc Hiếu, Võ đường Lê Minh, CLB Dưỡng sinh Vĩnh Xuân LiveCare, CLB Vĩnh Xuân Quần Ngựa, CLB Vĩnh Xuân Amsterdam, CLB Vĩnh Xuân Dưỡng sinh, CLB Vĩnh Xuân Nguyễn gia, CLB Vĩnh Xuân 18 Nguyễn Du, tại HCM có các võ đường của anh Trần Hậu Tuấn, Lê Hoài Nam và nước ngoài CLB Vĩnh Xuân tại Israel, tại Pháp CLB Vĩnh Xuân Ngô thị Pháp, CLB Vĩnh Xuân Ngô Gia Hoàng Pháp Bỉ-Pháp-Ý, tại Nga CLB Vĩnh Xuân Như Ý …
Không chỉ mong muốn truyền bá hệ thống kỹ năng vận động của Vĩnh Xuân Quyền, mà trong sâu thẳm tâm tư của mình, ông luôn muốn làm rõ và truyền đạt triết lý nhân văn cao đẹp trong môn phái Vĩnh Xuân cho các thế hệ trẻ Việt nam. Ông luôn, trước tiên, lấy Nhân sinh quan “Chân Thiện Mỹ”, chứ không phải kỹ năng võ thuật để dậy cho những ai muốn thụ giáo ông về Vĩnh Xuân Quyền. Đầu những năm 70, ông đã có rất nhiều buổi đàm đạo với Bác sĩ Nguyễn khắc Viện và nhà nghiên cứu Hà Nội học Nguyễn Phúc Giác Hải về Chân thiện mỹ của võ thuật nói chung và Vĩnh Xuân Quyền nói riêng. Ông cũng đã cùng một số đồng môn và môn sinh sớm tổ chức giới thiệu với Bộ Nội Vụ (nay là Bộ Công An), Bộ Quốc Phòng nhằm đưa những ưu việt của Vĩnh Xuân Quyền đến với thanh niên trong các lực lượng vũ trang đặng góp phần nâng cao bản lĩnh và kĩ năng chiến đấu cho họ.Nhìn lại cuộc đời của ông, có thể thấy trước tiên Ngô Sĩ Quý là một nhà văn hóa, một người thầy giáo hết lòng tận tụy với thế hệ trẻ Việt Nam. Ông tâm niệm và luôn dặn con, cháu, môn sinh triết lý đối nhân xử thế là “trong cuộc sống hãy trân trọng các chi phái, môn phái khác, không được tự đề cao mình, ở đời nhiễu xạ tự nhiên hương mà”. Khảng khái và cương trực nên chịu thiệt thòi trong đường công danh (từ khi vào làm ở Bộ Giáo dục đến khi nghỉ hưu ông chỉ có duy nhất một bậc lương), sống một đời kham khổ đạm bạc mà vẫn lạc quan không ham hố quyền chức danh vọng. Ông có câu nói nổi tiếng với môn sinh: “Phải nhớ rằng trên đầu ta chỉ có chính nghĩa mà thôi” đã trở thành triết lý sống cao đẹp của Vĩnh Xuân Quyền chi phái Ngô Sĩ Quý. Ông nghỉ hưu vào năm 1974. Trong hơn 20 năm sau đó, ông dồn cả sức lực và trí tuệ của mình vào việc truyền thụ Vĩnh Xuân Quyền cho nhiều lớp thanh niên Việt Nam và cả nước ngoài đến với ông. Ông mất ngày 5 tháng 2 năm 1997, tức ngày 28 tháng Chạp năm Bính Tý tại Hà Nội, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho anh chị em con cháu họ hàng ruột thịt, bạn bè đồng nghiệp và các môn sinh Vĩnh Xuân Quyền Việt Nam. Mộ của ông được đăt tại Nghĩa trang Yên Kỳ - Sơn Tây - Hà Nội.Cũng gần 20 năm, sau ngày ông mất, đúng như quan niệm sống của ông “nhiễu xạ tự nhiên hương”, vào tháng 2/2016 vừa qua, Hội võ thuật cổ truyền Hà Nội đã tổ chức lễ Vinh danh Đại võ sư cao cấp môn phái Vĩnh Xuân Việt Nam cho ông để ghi nhận công lao và di sản của ông để lại cho nền võ thuât cổ truyền Việt Nam.

Cổ Đông, Sơn Tây, Hà Nội
Hoàng Quốc Lập



Thứ Năm, 19 tháng 10, 2017

Lặng lẽ

Lặng lẽ đi qua nơi nào có Phật
Trong tâm tôi Phật choán khoảng trời
Lặng lẽ đi qua nơi nào không Phật
Ồn ã buồn vui những chuyện cuộc đời
Núi lặng lẽ đứng nghìn năm dáng núi
Những nhà sư lặng lẽ qua đời
Tiếng kinh kệ rơi vào cô tịch
Vầng trăng buồn lặng lẽ mồ côi

Đừng khóc nhé em, khi đời xa cách
Chuyện tình yêu vốn đã xa xôi
Đêm tôi nhìn bóng mình trên vách
Tôi là ai mang dáng con người ?

Thôi hãy sống những ngày lặng lẽ
Buồn và vui cũng thế mà thôi
Em cứ quên tôi, thôi đừng nhớ
Như một đóa hoa lặng lẽ mỉm cười

Hồ Ngạc Ngữ

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

Nhưng trước hết phải làm người tử tế

“ Ta phải về thôi, tuổi xế chiều
Dẫu còn dan díu chút tình yêu
Bài ca sư phạm không đành bỏ
 Sự nghiệp trồng người vẫn cố theo…”




NHÂN NGÀY KHAI GIẢNG NĂM HỌC 2015-2016


Nhân dịp này, tôi xin phép các vị lớn tuổi có vài lời với các em học sinh.

Các em thân mến ,

Đã bao giờ các em suy nghĩ một cách nghiêm túc để trả lời đúng đắn cho một câu hỏi có vẻ tầm thường sau đây : “Hàng ngày chúng ta đến trường để học cái gì?” . Phần lớn các em đếu nhanh chóng có câu trả lời: “ Học những điều có trong sách vở, cụ thể nhất là trong sách giáo khoa.” Chính vì thế mà người ta nói: “Cắp sách đến trường”…..

Thầy năm nay đã 79 tuổi. Thầy được “cắp sách đến trường” liên tục từ cấp 1, cấp 2, câp 3, rồi Đại Học, sau Đại Học , nghiên cứu sinh và lấy bằng Tiến sĩ….Và bây giờ khi nhìn lại cuộc đời đã qua của mình, Thày phải thừa nhận rằng những điều mình đã được học ở trường thực ra không phải là toàn là những “bảo bối”, cũng không phải là những “cẩm nang thần diệu” giúp cho thầy bước vào cuộc sống đời thường, một thực tế rất sôi động, đầy cơ hội và cạm bẫy…, trong đó cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác nhiều khi khó phân định rõ rang. Bởi vì hồi bấy giờ nhà trường chỉ truyền thụ những kiến thức thuần túy sách vở, ít gắn liền với đời sống xã hội ngoài nhà trường.

Cũng còn may là ở cái thuở thiếu thời ấy, thầy không chỉ chúi đầu vào sách vở, mà do hoàn cảnh gia đình, thầy còn phải làm nhiều việc khác nhau, ngẫm nghĩ những vấn đề khác nhau…Dẫu sao thầy vẫn ân hận và lấy làm tiếc cho cái thuở đến trường ấy đã không tranh thủ để học được nhiều hơn những bài học bổ ích vốn không nằm trong chương trình và sách giáo khoa.

Bởi vậy với tư cách là một thầy giáo nhiều tuổi nghề và nhiều tuổi đời, thầy muốn nhắn nhủ với các em rằng : “ Biển học là mênh mông, trong đó sách vở tuy quan trọng nhưng cũng chỉ là những vùng biển gần bờ mà thôi.”

Nền Giáo dục của chúng ta đang bắt đầu đổi mới theo xu hướng tiến bộ hơn, tích cực hơn, theo đó học sinh muốn thành đạt thì ngoài những kiến thức sách vở , họ còn phải thành thạo các kĩ năng xã hội, kĩ năng sống để phát triển toàn diện, họ cần phải được trang bị các giá trị chuẩn mực về tính cách, phẩm chất và những đạo đức tốt đẹp

Trong những năm học vừa qua, rất nhiều em h/s đã tham gia đội Thanh niên Tình nguyện để làm những công việc khác nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn…Chẳng hạn trong suốt một tháng hè họ đã miệt mài lao động để làm đẹp thêm mái trường chúng ta : họ làm vệ sinh các phòng ốc, sơn mới các bức tường, sửa chữa nhà ăn …. Qua đó họ đã thu hoạch được những bài học quý giá cho mình: họ biết tìm hiểu công việc, biết vạch ra kế hoạch làm việc, biết cách làm việc theo nhóm, biết phân công và hộ trợ lẫn nhau, biết cải tiến kĩ năng lao động và biết sáng tạo trong lao động. Qua những công việc mang tính phục vụ cộng đồng như vậy, mỗi cá nhân cảm thấy gắn bó và hòa đồng với tập thể của mình hơn và thương yêu nhau hơn… Thầy nghĩ rằng những bài học như thế không có hoặc ít có trong các tiết học Toán, Lí , tiếng Anh… hay Sinh, Sử …

Bên cạnh những niềm vui, đôi lúc thầy vẫn thoáng gặp những hiện tượng đáng buồn. Đó là khi thầy trông thấy một em nào đó vô tư vất rác không đúng chỗ , đó là khi trên mặt bàn mới toanh ai đó đã ngang nhiên viết và vẽ bậy,hoặc bôi bẩn bằng kẹo cao su, đó là khi trên mặt tường trắng đẹp bỗng in hằn một dấu chân bẩn thỉu … Những hành động, tuy rất hiếm hoi, nhưng không thể nào chấp nhận đươc, phải nói thẳng đó là những hành động không tử tế. Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, trước hết các em phải là những người tử tế, muốn vậy cần phải học tập và rèn luyện thường xuyên ngay trong thời gian cắp sách tới trường

Các em thân mến, rồi đây khi rời mái trường LTV thân yêu, các em sẽ bước vào đời bởi nhiều con đường khác nhau, do chính mình lựa chọn, hoặc do hoàn cảnh đưa đẩy. Thầy mong rằng những điều đã học – theo nghĩa rộng của từ này- sẽ giúp các em vững vàng hơn trong cuộc sống. Các em có thế trở thành những người lao động chân chính, những nhà kĩ thuật có chuyên môn giỏi, những người nghiên cứu thành công, những doanh nghiệp tầm cỡ, những nhà lãnh đạo xuất sắc, những chính khách uyên bác…, nhưng trước hết phải là những NGƯỜI TỬ TẾ, biết yêu thương và căm giận, vì nhân dân, vì Tổ Quốc Viết Nam yêu quý của chúng ta ….Đó là điều thầy mong chờ ở các em. "

Bài phát biểu của thầy Văn Như Cương trong ngày khai giảng năm học mới

Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Đèn đêm Thu

“ Khen ai khéo xếp (ô í a) cái đèn Cù
 voi giấy (ới a) ngựa giấy …   "




ĐÈN ĐÊM THU

Hình như năm nay thu nó về sớm hơn một kỳ; phải không hở anh Cử? Ông già sáu mươi cài hết hàng khuy hổ phách nơi tà áo chiếc áo lụa Nguyễn tím than đã bợt, ngẩng đầu hỏi người con đang soạn bộ đồ trà. Cậu Cử mở qua loa cuốn lịch, thưa lại:
- Thưa thầy, lập thu vào ngày mồng một tháng bảy.
Ông già sáu mươi kêu: "Thảo nào!" và hỏi tiếp:
- Đến tháng tám này là đúng vào ngày đầy tuổi tôi con bé cháu Tố Tâm đấy nhỉ?
- Dạ thưa thầy vâng.
- Một năm đủ mười hai tháng. Lên một, Tố Tâm nó chơi đèn được rồi đấy. Năm nay anh Cử có định bày cỗ cho các cháu chơi tết Trung Thu không?
Dưới nhà, vọng lên tiếng trẻ khóc bú và tiếng đàn bà ru con. "A ơ... Tâm ơi, Tâm ngủ đi Tâm... Để mợ ra đầm, gánh nước tưới hoa... à ơ...".
Ông già tỳ cùi tay lên gối xếp da quang dầu, vuốt chòm râu bạc, nhìn ra cơn heo may lay bức mành, làm gật gù bông cúc nơi chậu cây cảnh ngoài sân. Ông già nét mặt nghiêm trang, bảo cậu Cử:
- Các con gọi tên con cái, nên gọi cho đúng. Tên cháu bé là Tố Tâm, thì phải gọi đúng như thế. Sao lại ăn bớt đi mất một chữ. Không thể bảo như thế là tiện là dễ gọi được. Người ngoài người ta cười cho.
Cậu Cử vội chạy xuống nhà rồi lại chạy lên ngay. Nói tiếp về việc bày cỗ tháng tám, cậu Cử thưa:
- Đã đến mấy năm nay, nhà ta bỏ mất cái tục lệ ấy. Cứ kể có bày ra lại, nó cũng vui nhà.
Dưới nhà, lại vẳng đưa lên cái giọng ru con ban nãy:
"à ơ, Tố Tâm thừa chút hương trời... à ơ ư...".
Ông cụ già bằng lòng. Người con dâu thứ ở nhà dưới ru trẻ theo cái ý của ông già vừa ngỏ với cậu Cử. Cậu Cử cũng hài lòng vì vợ đã tỏ ra là một người thuần thục, biết nghe lời gia huấn. Không những thế, mợ Cử còn tỏ ra là người cũng võ vẽ thi ca nữa. Vì con gái út là một thứ hương thơm bắt được của trời!
Thằng Ngộ Lang, đứa con đầu lòng lên bảy tuổi, chạy lên mách với cậu Cử: - "Em Tố Tâm ngủ rồi cậu ạ". Rồi nó leo lên sập, nhảy vào lòng ông nội, cũng đòi uống trà tàu. Cái lối chạy lên làm nũng ông nội như thế, và được ông nội thỏa nhận, thằng Ngộ Lang đã có thói quen. Ông già sáu mươi yêu cháu vô cùng. Có khi ông lại đọc cả thơ chữ Hán để cho đứa trẻ sớm thông minh kia ngồi nhại mình. Nhớ được một hai câu ngũ ngôn ngăn ngắn, nó lại chạy xuống bếp túm dải yếm mẹ và đọc sai gần hết để mợ Cử lại phải phì cười chữa lại từng thanh âm một. Từ khi cụ Thượng Nam Ninh không ở chức tổng đốc vùng xuôi, về trí sĩ ở Hà Nội, tại cái nhà ngói chật hẹp phố Hàng Gai này, thằng Ngộ Lang là một cái vườn cảnh cho cụ vui cái thú điền viên. Cụ khen cháu cụ là đĩnh ngộ. Mỗi bữa rượu sớm, mỗi tuần trà trưa, cụ đều cho Ngộ Lang ngồi kèm một bên. Đã mấy mươi lần, vợ chồng nhà Cử hai hết sức van xin ông đừng nuông cháu quá, sợ Ngộ Lang đâm ra hỗn. Cụ Thượng phật ý, bảo dâu và con nếu không để cho cụ như thế thì cụ vào ở trong huyện Thọ Xương vậy. Vợ chồng cậu Cử không biết làm thế nào, đành cứ phải để Ngộ Lang mặc sức quấy và làm nũng ông nội. Cụ Thượng cười và thôi không dọa vào ở trong huyện Thọ Xương, nơi mà người con trai cả lỵ đã mấy năm nay. Thực thế, cái ý vào ở với cậu Cử cả, giờ là một ông quan lệnh, ý đó chỉ là một lời dọa. Ông lệnh Thọ Xương đã mấy mươi lần đem cả vợ con đến nhà hẹp phố Hàng Gai để rước cụ Thượng vào trong huyện ở cho mát hơn rộng hơn. Cụ Thượng chỉ trả lời ông huyện Thọ Xương:
- Lần sau, anh được lúc việc quan thanh thản, có ra chơi ngoài phố này với thầy, đừng có nên đem lính ra nhé. ồn lắm. Chúng nó có sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh, thì cho thêm vào cái đám Kiêu binh Tam phủ được đấy. Thầy rất sợ hàng phố người ta nói vào.
Mấy lần sau ra thăm cha, ông huyện Thọ Xương không dám đem mấy tên lính trọ trẹ ra theo nữa, nhưng đả động đến việc cũ, thì chỉ thấy cụ Thượng trả lời:
- Thầy ở đâu thì cũng thế. Miễn là được tĩnh mạc là hơn cả. Anh cũng rõ cái tính tôi vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao thiệp. Tôi tưởng vào ở tư thất một huyện nha nó phiền nhiễu lắm. Thôi anh cứ để tôi ở ngoài này.
Ông huyện Thọ Xương biết cha mình có bụng yêu chú Cử em hơn nên kiếm cớ ra như thế, bèn nói dỗi:
- Dạ, con tưởng hồi trước thầy còn ở chức, sự giao thiệp và đưa đón những tạp khách cũng nhiều lắm, và nhiều không kể cho hết được, lại là những cái gai mắt của toán lính hầu cận thầy. Một cái dinh Đốc bố đường, thưa thầy, sai nha không phải là ít. Vậy mà con không thấy thầy phàn nàn bao giờ cả.
Cụ Thượng hiểu ý, cười:
- Bởi thế cho nên tôi mới thèm đến sự an nhàn lúc được dưỡng lão. Vả lại thầy ở ngoài này nó quen đi rồi. Bao giờ anh được lùi về vườn và nếu trời còn cho thầy sống một vài giáp nữa, ông con ta sẽ ở chung để sửa sang một cái vườn có đủ hoa bốn mùa. Anh không lo rằng chậm. Thôi, cứ để thầy ở ngoài này.
Cụ vừa trả lời ông huyện Thọ Xương vừa nhìn ông Cử hai đứng sau người anh, có ý bảo thầm người con thứ rằng: "Bao giờ thầy cũng chỉ muốn ở với con, bởi vì con có tâm hồn giống như ta". Rồi ngắt sang câu chuyện khác, cụ hỏi:
- Các anh có nghe thấy ở các phường người ta đồn về cái tin đức Thành Thái ngự du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ như thế nào không? Chắc ông huyện thì rõ nhiều hơn là em Cử nó. Mấy nhịp cầu tất cả nhỉ! Hình như là chín nhịp đấy nhỉ?
Thường mỗi một lần từ chối lời mời mọc chí tình của người con cả, ông già lại có một câu chuyện đánh trống lảng như thế, để giữ lấy hòa khí trong đám "anh em chúng nó". Cùng là con cả, nhưng cụ Thượng đã thấy rõ ông Cử cả, tức là ông huyện Thọ Xương đương chức kia, là một người có tâm thuật rất hèn kém. Cũng là một giọt máu sinh đôi mà sao ông Cử cả và ông Cử hai không giống nhau lấy mảy may, từ quan niệm nhân sinh cho đến từng cái nhỏ nhặt hàng ngày. Cụ Thượng tin rằng khi cụ trăm tuổi đi rồi thì ông huyện Thọ Xương dám làm mọi chuyện phương hại đến gia thanh. Cái người ấy, thường cụ vẫn hạ mấy chữ "vô sở bất chí" những lúc nghĩ riêng mình với mình: "Ta nằm xuống, là thằng này sẽ làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan của ta". Bởi chán về người con lớn đã tìm được lối xuất thân, cụ càng nghĩ mà thương và yêu người con thứ. Cũng là thân danh một ông cử nhân có vợ, có con, mà vẫn còn đơn giản như ngày để chỏm. Ông Cử hai có khoa mà không có hoạn, và cái khoa mục ấy giá không nói ra thì không ai biết. Người có hoa tay, thêm được chút tâm hồn lãng tử, nên ông Cử hai sống cuộc đời mình như người ta chơi chơi vậy thôi. Người ấy, thực là một người không có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân sinh. Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái tài hoa của mình ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình. Hồi cụ Thượng còn nhậm ở dưới Sơn Nam hạ, cái gia đình lớn ấy chưa quy về một mối, ông Cử hai quanh năm đi dạy học ở bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc. Không cần phụ huynh học sinh xử hậu hay bạc, không cần địa phương ấy là có đất văn tự hoặc dân ấy là có nếp văn chương muốn cầu học chữ của thầy, có khi tới ở đó ít ngày, ngồi giảng bài chưa ấm phòng học, ông đã quẩy khăn gói tráp điếu lên đường. Người tuổi tác có hỏi, ông trả lời là vì cảnh ở đấy không dung được người. "Bực trượng nhân thử nghĩ: cái gì mà nước chỉ chảy xiết không bao giờ tụ; cây trồng đến ba năm bói không có quả; ớt nhấm không thấy cay; hoa chỉ có mùi thơm về phần đêm; núi chỉ bằng đầu chứ không có chỏm ngọn, và mây trời không bao giờ hiện đủ năm sắc. Cảnh như thế, tôi ngồi mà làm gì. Chữ thánh hiền không phải ở chỗ nào cũng đem bố thí được".
Ông Cử hai đi dạy học, đã lấy cái việc dạy học làm một mưu hồ khẩu mà y như là đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Và những lúc mỏi chân phải ngừng ở lại các thôn ổ, ông lại còn thỉnh thoảng ngừng cả cái miệng giảng sách hoặc ngừng chấm nét son lên quyển bài, để đề một bức châm lên lá quạt tặng bạn đồng song, để khắc chữ triện và trạm trổ một hòn đá xù xì cho thành một con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu mực vẽ một bộ tứ bình thủy mặc có hình đủ bốn thứ cây cỏ tứ hữu: cúc, trúc, lan, mai, treo chơi trên vách đất quán trọ nơi ngồi dạy học.
Gần ngày tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn, chỉ khổ lên vì đi tìm thầy. Tết mùng ba, ông Cử hai đã trốn khỏi nhà trọ từ hôm trước để để đi ăn hàn thực và đi hội đạp thanh với các bạn sính làm thơ tức cảnh. Tết Đoan ngũ, ông lên núi hái lá thuốc, những mong được như hai người Lưu Nguyễn ngày xưa gặp tiên. Tết Trung thu ông lên chùa Thầy ngắm trăng Chợ Giời họp trên đỉnh núi Sài Sơn. Gần tết Nguyên đán, nếu chưa về nhà, thì ông ẩn ở trong một mái đình vắng nào để gọt cho hết một lắp thủy tiên. Cái hành tung của người nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh ấy, thực khó mà dò hỏi. Lùng tìm cái dấu bàn chân một chính khách thất quốc lúc vượt bể ra ngoài mưu việc lớn, có lẽ còn dễ hơn đi đuổi theo ông Cử hai những lúc cái hứng giang hồ ở người ông nổi dậy.
Từ ngày cụ Thượng nghiêm phụ về trí sĩ ở Hàng Gai, Hà Nội, ông Cử hai không tha phương làm ăn nữa. Ông ở riệt ở nhà chép lại cuốn gia phả, và sao được bao nhiêu pho Kinh mượn trên chùa Trấn Quốc cho cha. Thế rồi mợ Cử sinh thêm được con Tố Tâm. Trước ngày ở cữ Tố Tâm, vườn lan nhà cụ Thượng Nam Ninh ở Hàng Gai nở đều mấy chậu vừa Tiểu Kiều, Đại Kiều. Cụ Thượng cha gọi thế là lan báo hỉ và đặt tên luôn cho cháu gái là Tố Tâm. Mợ Cử hai, thấy chồng không ra mặt bất đắc chí và phẫn uất với buổi giao thì nữa, chỉ ngày ngày thờ cha già và chơi với Ngộ Lang và Tố Tâm, cũng vui cười hể hả thêm lên. Một hôm Mợ đã dám ru con rất to, như rót vào tai chồng:
Ba năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu lại, cơ đồ vẫn nên.
Thằng Ngộ Lang và con Tố Tâm ngoan vô cùng. Thằng anh mến con em, nhiều khi cắn cả má em để cho em vừa khóc vừa theo, ồn ào và dễ thương lạ. Con Tố Tâm chưa đầy tuổi tôi, mà má đã lúm đồng tiền, mà mắt đã trong như nước hồ thu. Ngắm con gái, anh hoa sớm lộ ra ngoài, mợ Cử hai có điều ngài ngại. Buồn một cách thoảng qua thôi. Chỉ có một lần thằng Ngộ Lang làm cho mẹ nó buồn sợ hơn hết là một buổi tối, nó vén màn the lên, kéo mẹ nó đến gần cửa song có con tiện, chỉ cho mẹ nó xem một vừng trăng sớm ló bên đầu hồi nhà.
- Mợ ơi, ra đây mà xem ông giăng.
- Ông giăng làm sao?
- Ông giăng đẹp lắm. Có hai cái cánh nhọn.
- Thế thì đẹp gì. Ông giăng có tròn thì mới đẹp chứ!
- Tròn cả không đẹp mợ ạ.
Từ lúc ấy, thằng Ngộ Lang cứ vắt tay lên trán mà ngắm giăng như một người lớn đang suy nghĩ. Mỗi lần mẹ nó bảo bỏ lá màn xuống cho khỏi muỗi thì nó lại sụt sịt khóc. Và nó cứ vắt tay lên trán nhìn vừng giăng lên mỗi lúc một cao. Ông Cử hai vừa về, nó nhẩy choàng dậy, vui mừng như một người đứng tuổi khi tìm được một tâm hồn bầu bạn, nó lôi tay bố nó xềnh xệch đến chỗ chấn song, chỉ vừng giăng bạc có cánh nhọn và nói:
- Ban nãy ông giăng khéo hơn bây giờ kia cậu ạ. Ngộ Lang nằm chờ mãi mà không thấy mây che lấy ông giăng của Ngộ Lang. Thế đêm nay có mây không hở cậu?
Vợ chồng ông Cử hai nhìn nhau hồi lâu, chốc lại liếc qua Ngộ Lang đứng bần thần bên cửa sổ có ánh giăng xuyên qua. Người vợ hình như lấy cặp mắt lo lắng bảo thầm chồng: "Tính di truyền giọt máu nhà lại bắt chúng ta cho ra đời một tên tài tử nữa rồi" để cho người chồng nghĩ thêm rằng: "Đời thằng Ngộ Lang rồi cũng chỉ đến lăng băng mà thôi. Cái vừng giăng lưỡi liềm kia sau này còn lôi kéo cái thơ mộng Ngộ Lang kia đi xa lắm. Việc ấy cũng là số mệnh định cả và điềm ra như thế".
Qua ngày Tết Trung Nguyên, ông Cử hai để tâm vào việc sắm cỗ tết Trung Thu cho hai trẻ Ngộ Lang và Tố Tâm và vợ chồng cũng quên cái việc Ngộ Lang mê cái bóng giăng lưỡi liềm đêm trước.
Mấy hôm nay, ông Cử hai chạy suốt ngày như một người bận rộn nhiều lắm. Chốc chốc lại tha về mấy cái mai cá mực, hoặc ít mụn nhiễu đủ các màu tươi và bao nhiêu là giấy hàng mã cùng là que nứa và dây lạt. Ông Cử hai, một người tài hoa giang hồ, đến cái tuổi chán sự bay nhảy và đã nghĩ đến chuyện vui cùng gia đình.
Người ấy đã hồi tâm lại, mong gây cái êm ấm cho gia đình vào một ngày tết của con trẻ. Người ấy đi kiếm các vật liệu để làm cho lũ con một cái đèn xẻ rãnh. Từ trước tới giờ cái người ấy có sao Thiên Cơ chiếu vào hoa tay, chỉ đi làm đèn xẻ rãnh ở những chỗ đầu sông ngọn nguồn cho các thứ trẻ con thiên hạ, hồ mong trả cái nợ áo cơm đối với những người bao dung mình vào những ngày và tháng bẽ bàng.
Mấy ngày liền liền, ông Cử hai nghĩ tìm một cái đầu đề mới lạ cho đèn xẻ rãnh. Hay là lấy sự tích Tam Quốc ra làm? Không thấy hứng lắm, bởi vì đã đến ba bốn lần ông mượn tích Tam Quốc rồi. Người ta còn nhắc mãi đến bây giờ cái đèn xẻ rãnh của ông hồi mấy năm về trước, diễn cái tích "Triệt giang phò A Đẩu" lúc Triệu Tử Long nhẩy sang thuyền Tôn phu nhân trên sông Ngô, trông cứ như thật. Cái tài làm đèn xẻ rãnh của ông được nổi tiếng truyền rộng ra một vùng Kinh Bắc là từ cái đèn "Triệt giang phò A Đẩu" ấy. Tác phẩm chỉ độc có một cái ấy, ngày nay ông Cử hai không còn nhớ ra được là đã vào tay ai. Hình hài ông vào hồi ấy cũng còn là chuyện bỏ qua, huống hồ chỉ là một công trình tiểu xảo kia! Ai đi nhớ mà làm gì!
Mấy hôm nay ông nghĩ đầu đề làm đèn xẻ rãnh cho thằng Ngộ Lang, thực khó hơn là tìm vận thơ gieo cho một bài bát cú phú đắc. Chưa biết nên diễn cái tích gì đây! Hết ngày ấy sang ngày khác, ông ngồi bóc sẵn hạt bưởi và chẻ những hạt na ra từng hai mảnh một. Hạt bưởi xâu vào que phơi khô, tức là những cây nến cắm vào đèn giấy cho lũ trẻ con nhà nghèo chơi đêm ngày rằm.
Cụ Thượng nướng đỏ cái tiêm sắt vào ngọn đèn thổ hà, xiên mũi tiêm nóng vào lòng mảnh hạt na, hút một điếu thuốc lào, thở khói pháo. Mảnh hạt na vừa tàn thì tro thuốc nơi nõ điếu cũng vừa tụt gọn vào điếu. Gọn gàng và ngon lành đến thế là cùng. Cụ Thượng hỏi ông Cử hai:
- Thế anh đã nghĩ làm đèn như thế nào chưa?
- Con định hỏi lại thầy về cái tích này xem có nên không. Là diễn một tích trong truyện Ngô Việt Xuân Thu, lúc Phạm Lãi đem Tây Phi sang dâng Ngô Phù Sai.
- ừ, Phạm Lãi gặp Tây Thi giặt lụa ở bến Trữ La, hồi này thú vị đấy. Nhưng anh Cử định diễn từ đoạn nào? Phải làm những quân gì? Đừng nên làm nhiều quân lắm. Cái sức luân chuyển của tán đèn đốt lửa chỉ có chừng độ thôi. Nếu dùng nhiều quân quá, sức máy gạt ngang sẽ yếu đi nhiều.
- Con đã nghĩ rồi. Cái rãnh chính để hình dung một con sông chảy từ đất Việt sang đất Ngô. ở phía bên phải chiếc đèn, đắp một hòn núi giả hơi cao. ở rãnh phụ ấy đặt một cái máy gạt ăn vào hai hình quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư. ở nơi góc bên trái, cũng ở một cái rãnh phụ nữa, lại một chiếc máy gạt ăn vào một chiếc thuyền ở trên có hình Phạm Lãi ngồi. ở cái rãnh chính thì có chiếc thuyền lớn. Đấy là thuyền Tây Thi tiến Ngô.
- Thế anh cho các quân ấy chạy và gặp nhau như thế nào?
Ông Cử hai dúng ngón tay trỏ vào cái đĩa dầm sứ có nước, vẽ xuống mặt án thư mấy hình phác họa vị trí của từng quân đèn xẻ rãnh.
- Thưa thầy, khi tán đèn quay, thì cái thuyền Tây Thi đi từ phía trái sang phải. Khi thuyền gần tới hòn núi giả, động đến cái máy gạt có cần thép ăn vào hai quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư, thì hai hình này cử động. Ngô Phù Sai sẽ ưỡn mình ra phía sau như là ngắm kỹ nàng Tây Thi ở trong cái thuyền tiến cống đang đi thấu vào bờ cõi nước Ngô. Còn hình Ngũ Tử Tư thì cử động hai tay như là ôm lấy Ngô Phù Sai, can ngăn không nên thâu nhận lấy cái họa Tây Thi. Về phía bên trái cỗ đèn, khi thuyền Tây Thi vừa lướt qua cái trục máy gạt ở rãnh phụ phía trái, thì chiếc thuyền con có Phạm Lãi lộn ngược đi khuất vào góc đèn. Thầy nghĩ thế nào?
- Anh dàn quân thông đấy. Thành ra hết bốn quân Tây Thi, Phạm Lãi, Phù Sai, Ngũ Tử Tư, ừ, bốn quân và... hai con thuyền. Chưa lấy gì làm nặng quá sức quay của tán đèn. Có thể thêm một quân nữa.
- ý thầy muốn thêm một quân Thái Tể Bá Hy nữa, thưa thầy phải thế không? Vâng, có cái ông Thái Tể nữa vào nó cũng vui trò. Phải thêm một cái gạt nữa cho cái ông nịnh thần vong quốc này. Lúc thuyền Tây Thi đến, trong truyện, chính Thái Tể Bá Hy ra đón Tây Thi, và từ đấy, đã đưa Ngô vào đường diệt vong theo đúng cái kế hoạch của Việt vương Câu Tiễn.
Cụ Thượng và ông Cử hai ra công làm năm quân ấy cho chiếc đèn xẻ rãnh lấy tên là "Ngô vương cự gián nạp Tây Thi".
Công việc chẳng có gì, vậy mà cũng mất đến hơn mười hôm. Ông Cử hai tìm những mẩu nến bạch lạp rất to cháy dở còn thừa lại trên đầu các đèn nến thiếc Sông Ngân nơi bàn thờ. Và đi lục lọi thêm những mẩu khác nữa trong tủ để cho nó đủ. Mẩu nến của kỳ giỗ xa xôi sót lại, vẫn chưa mất hết hẳn những giọt nước mắt sáp của những ngày hương đèn năm trước. Ông Cử hai đem đốt chảy và hợp thành được một tảng sáp lớn. Ông chuốt quân đèn xẻ rãnh và lấy sáp này làm cốt cho quân. Cũng may mà những mẩu sáp thừa kia đủ dùng, chứ không thì cũng hơi rầy vì cái khoản vật liệu này. Độ này nhà túng lắm, mọi việc mua bán đều phải lấy tiết kiệm làm đầu. Đã hay rằng ông huyện Thọ Xương vẫn có đưa ra luôn để đỡ thêm vào việc chi tiêu trong nhà, nhưng ông Cử hai vẫn lấy thế làm phiền.
Thế là tạm xong được mấy cái cốt hình người. Bây giờ mới bắt đầu làm đến đầu người, mặt người. Thằng Ngộ Lang ngồi chồm hổm bên cạnh bố, hỏi luôn miệng:
- Tai sao cái mặt này cậu để trắng, cái mặt khác lại có hai chấm đỏ, và cái mặt kia cậu lại bôi đỏ hết cả đi?
Cụ Thượng đang ngồi lựa mụn lụa xanh đỏ bó thành quần áo cho quân sáp, cười và bảo:
- Cháu đừng có nghịch thì mới chóng có đèn chơi. Mặt trắng là quan văn. Mặt đỏ là quan võ. Những người trung thần nghĩa sĩ cũng đều mặt đỏ cả. Người phản nịnh thì mặt trắng mốc có điểm mấy vệt đỏ nhờ nhờ.
Ngộ Lang chỉ vào lũ mặt người:
- Thế ra ông làm cho cháu một cái đèn có cả người nịnh và người trung, quan văn và quan võ đấy à. Sao ông không cho quân đèn mặt đỏ tất cả đi?
Ông Cử hai gọt đầu người bằng mai cá mực, để công nhiều nhất khi gọt đến mặt Phạm Lãi và Tây Thi. Nàng Tây Thi tất nhiên phải có khuôn mặt đẹp. Nhưng nghĩ đến cái thú vị của một đời người như lúc Phạm Lãi dám bỏ lại sau mình cả một cái giàu sang nhất nhì mà đi chu du Ngũ hồ, nghĩ đến phút ấy trong cái sinh bình một người xưa, ông Cử hai cũng làm luôn cho Phạm Lãi một cái mặt rất đẹp, cấy vào đấy một bộ râu năm chòm đen nhánh, Ngộ Lang cũng tỏ ý thích cái đầu Phạm Lãi và cả cái đầu nàng Tây Thi nữa.
Đèn xẻ rãnh đã hoàn thành. Cái tán đèn xẻ rãnh to quá. Phải thắp đến mười con bấc nơi đĩa dầu sở, cái sức mạnh của lửa mới quay chạy được tán đèn. Ngày đầu tháng tám, ông Cử hai đem đèn ra thử.
Có người học trò cũ ở Sơn Tây về qua Hà Nội, biết ông Cử hai có con, đem đến biếu thầy học cũ một cái bánh dẻo mặt trăng, mặt bánh to một thước, thế nào lại nhằm ngay vào giữa hôm ông Cử hai thử đèn xẻ rãnh. Ông bày đèn ra sân, đốt hết cả mười con bấc cháy sáng. Ông bày luôn ra sân bộ đồ trà, mời cụ Thượng ra ngồi vào cái ghế đẩu đã để sẵn trước đèn. Cụ Thượng ngồi, ăn bánh, uống nước và trịnh trọng như một người được mời tới để định giải thưởng cho đèn xẻ rãnh. Rồi cả nhà, mỗi người một miếng, trông vui vẻ lạ. Vui nhất là Ngộ Lang. Cả đến con Tố Tâm bé thế mà cũng ăn được hai mảnh bánh mặt trăng.
Quân đèn bắt đầu diễn vòng đầu. Mặt trước đèn có nến soi vào, sáng như một sân khấu rạp tuồng thu bé lại. Thuyền Tây Thi từ từ tiến vào sân khấu. Lúc nàng vào được đến phần ba lòng sân khấu, lướt qua chiếc thuyền Phạm Lãi, động đến cái máy gạt thứ nhất ở góc trái đèn, thì thuyền của Phạm Lãi quay vào trong và lẩn mất. Nàng Tây Thi vẫn xuôi trên sông Ngô rồi biến vào nội địa đất Ngô. Cái máy gạt ở góc phải cỗ đèn động đánh xịch một cái nữa, thì trên hòn núi giả làm bằng giấy trang kim đốt đen, Ngũ Tử Tư bắt đầu ôm lấy Phù Sai với dáng điệu của người tôi trung hết sức ngăn chúa. Nhưng dưới chân giả sơn, cái người nịnh thần Thái Tể Bá Hy đã đon đả đi gần lại thuyền Tây Thi, giơ tay ra đón lấy. Trên cái núi giấy, hai hình tội chúa kia vẫn cử động như ban nãy, một người tỏ vẻ can ngăn, một người vùng vằng không chịu nghe. Thuyền Tây Thi dưới này, đi sâu mãi vào đất Ngô và khuất hẳn. Vậy là đủ một vòng đèn xẻ rãnh.
Ngộ Lang nhảy lên mà cười. Cái đèn này là của riêng nó để bày cỗ ngày rằm. Con Tố Tâm khoa mãi hai chân và hai tay như muốn sà xuống chỗ đèn sáng. Rồi nó khóc. Mợ Cử hai bảo chồng:
- Hay là làm cho mỗi đứa một cái. Càng đông đèn, cỗ càng vui. Giữa mâm cỗ, bày một con gà uốn hình ông Lã Vọng. Ngộ Lang đã có đèn xẻ rãnh. Giờ làm cho con Tố Tâm một chiếc đèn kéo quân, cho nó khác đi.
Ngay ngày hôm sau ông Cử hai lại túi bụi vào việc làm đèn kéo quân. Ông đã đem một tập sách thơ cũ ra, lột mất mấy cái bìa sơn cậy, cắt bìa ra, ghép hai mảnh bìa làm một, dán lại làm hình người, Tố Tâm thì chỉ chơi đến đèn kéo quân thôi. Nhưng dù sao, ông Cử hai cũng để hết công phu vào việc làm đèn. Chiếc đèn kéo quân của con Tố Tâm, đến hôm bày cỗ rằm, cũng còn hơn các bàn cỗ nhà khác ở chỗ nó có những hai chiếc tán kia, mỗi cái tán ăn vào một đĩa đèn, một tán xoay vòng theo chiều thuận, một tán xoay theo vòng nghịch. Đèn chạy, hai vòng quân, một vòng trẩy đi, một vòng trẩy về, vui mắt lạ! Lại còn đèn cá và thiềm thừ nữa. Mợ Cử hai ngâm sẵn một vại ốc và bửa những quả bưởi rất khéo, cốt giữ nguyên vẹn lần vỏ, trổ vào vỏ những hình trám thủng, để hôm sau con nó thắp lên rồi tha hồ mà lăn tròn cái thứ đèn cù ấy trên mặt đất. Ông Cử hai tìm lên vùng Hồ Tây đặt rượu sen thứ có tăm. Chưa bao giờ cái tết Trung Thu nhà ông nhộn nhịp cả nhà đến như thế.

Nguyễn Tuân
Trich  “ Vang bóng một thời ”

Giới hạn của mẹ




GIỚI HẠN CỦA MẸ

con hỏi:
– Thánh Gióng có phải là siêu nhân?
– Cô Tấm có giống bà tiên ác?
– Vua có nhiều vợ sao Hoàng hậu không đánh ghen?
– Thực phẩm bẩn đã rất lâu sao bây giờ người ta mới bắt?

mẹ nhìn lên trời xanh ngăn ngắt
mây vẫn trắng như thuở nào
và mắt con ngơ ngác

mẹ nhìn ra đường
mọi người trốn trong các lớp khẩu trang
đeo kính đen giấu mặt

mẹ không tìm được câu trả lời cuối cùng cho những điều con thắc mắc
xin lỗi con yêu

Vũ Thanh Hoa