Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Sang Thu

Gió may nổi bờ tre buồn xao xác
Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
...

Anh Thơ

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Đồng bệnh tương lân


Có anh đại gia đi con Mẹc xịn, sau khi đánh giầy xong thì rút hẳn tờ 500 ngàn ra để trả công…đánh đôi giầy. Chú đánh giầy choáng quá mới hỏi :
- sao...bác lại cho em nhiều thế ?
Anh kia liền nói :
- chú em cứ cầm đi, đừng ngại.  Vì tôi trông chú em cũng sáng sủa, không đến nông nỗi nào… làm tôi lại nhớ đến… mình ngày xưa…nói thật với chú em…trước kia, tôi cũng đánh giầy như chú em… nhờ đầu tư chứng khoán mà tôi mới có được ngày hôm nay.
Chú đánh giầy nghe vậy,  mặt dài thuỗn ra…thẫn thờ  … rơm rớm nước mắt, và… dứt khoát không chịu nhận tờ 500 ngàn.
- anh ... em mình đúng là đồng cảnh ngộ với nhau… chả dấu gì bác …trước đây nhà em cũng đã từng là đại gia chứng khoán oanh liệt một thời đấy …bác ạ!
- ! ! !
-st-

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

Bài ca phiêu lưu

" Hiểu cho nhau sống đã là ... phiêu lưu "



 BÀI CA PHIÊU LƯU

Xin em đừng nản lòng yêu
Tình tang là cuộc phiêu lưu tuyệt vời
Xin em đừng ngán cuộc chơi
Phiêu lưu đã nhất trần đời là mơ
Xin em đừng mỏi mong chờ
Phiêu lưu tới bến tới bờ còn xa
Xin em đừng vội vã già 
Hiểu cho nhau sống đã là ... phiêu lưu.

Nguyễn Duy

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

Bởi còn thiếu một nén nhang


Trong Đại Hùng Bảo Điện nguy nga đồ sộ, có một cậu thiếu niên đang dâng hương cầu khẩn Phật Tổ. Cậu cắm ba nén nhang vào trong lư hương, thầm cầu khẩn rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ con thi đậu khoa cử, thăng quan tiến chức, tận trung báo quốc, tạo phúc cho người dân trong làng”. Nói xong lại bái lạy vài lần, lúc này mới đứng dậy rời đi. Phật Tổ nhìn cậu thiếu niên bên dưới chỉ cười mà không nói gì, tôn giả A Nan đứng bên cạnh hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, cậu thiếu niên này vô cùng thành khẩn, lời nguyện phát ra lại là nguyện lành, vậy sao Người không nhận lời?”. Phật Tổ chỉ mỉm cười, chậm rãi nói: “Bởi còn thiếu một nén nhang”.
- “Còn thiếu một nén?”, tôn giả A Nan nhìn ba nén nhang vẫn còn trong lư hương, nghĩ mãi vẫn không hiểu được.
Thoáng một cái đã mười năm trôi qua, cậu thiếu niên ngây ngô ngày nào giờ đã trở thành một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, khí phách oai hùng. Kỳ thi năm đó tuy chàng không thi đậu, nhưng ngược lại chàng đã vứt bút tòng quân, trở thành một viên võ tướng, đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong quân đội. Lần này về lại quê làng, là đặc biệt trở về cử hành hỷ sự. Chàng thanh niên vẫn giống như trước đây, thắp ba nén nhang đàn hương, cung kính quỳ lạy trước tượng Phật rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ cho hạ quan kết được một mối duyên lành, thê tử hiền thục, vợ chồng hòa thuận”. Vừa nói vừa dập đầu sát mặt đất.
Tôn giả A Nan nhìn thấy màn này thì rất xúc động, quay đầu lại nhìn thấy Phật Tổ vẫn mỉm cười không nói gì, lại bèn hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, sao Người lại không nhận lời anh ta?”. Phật Tổ cười nói: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Nháy mắt lại mười năm đã trôi qua, chàng thanh niên giờ đã bước vào tuổi trung niên. Khi ông đi vào Đại Hùng Bảo Điện lần nữa, trên gương mặt đã phảng phất hiện ra mấy nếp nhăn. Bởi bị gia tộc nhà vợ liên lụy, đại tướng quân oai phong lẫm liệt năm nào, giờ đây đã bị giáng chức làm một viên quan quèn ở địa phương; bao nhiêu chí nguyện lớn lao nay đều không thể thực hiện được nữa. Ông bước vào Bảo Điện dâng hương bái lạy, thầm cầu khẩn, cầu cho con cái của mình có thể chuyên tâm học hành, hoàn thành sự nghiệp dang dở của mình. Tôn giả A Nan nhìn nhìn ông, lại quay sang nhìn Phật Tổ đang mỉm cười không nói gì, trong lòng than rằng: “Rốt cuộc vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Mười năm lại trôi qua, người trung niên giờ đây tóc đã hoa râm bước vào tuổi già. Lúc này ông đã giải ngũ về làng, sống an cư nơi thôn dã, không còn chí nguyện to lớn như ngày trước nữa Người lão niên thắp ba nén nhang đàn hương giống như trước đây, khấu đầu rằng:
“Phật Tổ, ngày trước con đã nhiều lần đến cầu nguyện, nhưng Người trước sau đều chưa từng nhận lời con dù chỉ một lần. Nhưng một lần này đến đây xin Người hãy thành toàn cho tấm lòng hiếu thảo của con. Nghĩ đến ngày trước, cha con mất sớm, là mẹ già trong nhà đã vất vả nuôi nấng con khôn lớn thành người. Bây giờ mẹ già tuổi đã cao, chỉ mong bà có thể bình an vô sự, vui vẻ sống quãng đời còn lại, ngoài điều này ra không còn cầu mong gì hơn nữa”.
Tôn giả A Nan nghe thấy những lời này thật không đành lòng, quay đầu nhìn sang Phật Tổ, lại phát hiện trên gương mặt Phật Tổ đã nở nụ cười, nhẹ nhàng gật đầu: “Vậy sẽ như nguyện của con vậy”.
Người lão niên đi ra khỏi chùa, còn chưa về đến nhà, tin mừng đã từ xa truyền lại, hai người con trai của ông lại cùng lúc thi đậu văn võ trạng nguyên trong triều, hơn nữa triều đình còn ban bố chiếu thư rửa sạch nỗi oan của ông, để cho ông khôi phục chức quan, còn thăng lên ba bậc nữa. Nhưng lần này người lão niên cuối cùng đã không nhận lệnh. Ông đã quyết định từ nay ở lại trong nhà chăm lo cho mẹ già.

* Lời bàn : Con người ta cả một đời đứng trước tượng Phật chỉ chăm chú cầu khẩn cho những lợi ích, danh vọng của bản thân mình, nhưng rốt cuộc vẫn là còn “ thiếu một nén nhang ”. Người xưa có câu rằng “Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”, tấm lòng hiếu thuận của người con quả thật có thể làm cảm động Đất Trời.
-st-

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2016

Dưa lê


Bò cày ruộng trở về, mệt quá nằm lăn ra đất nghỉ, thở phì phò. Chó đi ngang qua, thấy vậy bèn dừng lại hỏi han. Bò thở dài, nói:
- Anh bạn à, tôi thực sự mệt quá rồi. Ngày mai tôi không muốn ra đồng nữa, ở nhà nghỉ cho lại sức.
Hai con vật nói chuyện thêm một lúc rồi tạm biệt nhau. Trên đường, chó gặp mèo đang nằm vắt vẻo trên bờ tường. Chó nói:
- Này anh bạn, tôi vừa mới đi thăm bò. Anh ta than mệt, còn nói muốn nghỉ làm một ngày. Kể ra cũng tội, chủ nhân đúng là đã bắt anh ấy làm việc nhiều quá rồi.
Mèo quay người, nói với dê đang ăn cỏ gần đó rằng:
- Anh biết tin gì chưa? Bò trách chủ nhân bắt mình làm nhiều việc nên muốn nghỉ một ngày, mai không ra đồng nữa đấy.

Một lúc sau, dê gặp gà, liền nói:
- Bò không muốn làm việc cho chủ nhân nữa, chị gà mái ạ. Anh ta than là công việc nhiều quá, mệt quá. Hầy, cũng không biết những chủ trang trại khác đối xử với bò của mình có tốt hơn chủ nhân chúng ta không nữa.
Gà lại nói với lợn:
- Anh bò sắp nghỉ làm ở đây rồi. Anh ta muốn đi tìm chủ nhân khác. Ai bảo chủ nhân đối xử với anh ấy tệ quá, bắt làm bao nhiêu là việc, lại còn dùng roi đánh anh ta nữa.
Gà cảm thán vài câu rồi lại tót về chuồng. Một lúc sau, vợ ông chủ đi chuẩn bị cho các con vật ăn tối. Lợn liền lại gần, nói:
- Tôi muốn báo cáo lại với bà một chuyện. Dạo gần đây, bò hay có những suy nghĩ nổi loạn, rất cần phải được dạy bảo lại. Anh ta không muốn làm cho chủ nhân nữa, chê công việc ở đây nhiều quá, nặng quá, khiến anh ta mệt mỏi. Bò còn nói muốn bỏ đi, tìm một chủ nhân khác nữa đấy.Nhận được phản ánh của lợn, trong bữa tối, bà chủ lập tức đem chuyện nói lại với chồng:
- Mình ơi, bò đang muốn tạo phản. Nó muốn đổi chủ, không làm cho mình nữa. Tội tạo phản không thể tha, mình định xử nó thế nào?
- Kẻ phản bội đều đáng tội chết, giết không tha! – Ông chủ nghiến răng, tức giận nói.

Vậy là con bò đáng thương suốt ngày chỉ biết làm việc quần quật, cuối cùng lại bị những lời truyền miệng sai sự thật giết chết như vậy đấy.

-st-

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Hai Mặt


Sự Thật có 6 chữ
Giả Dối cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường!

Tình Yêu có 7 chữ
Phản Bội cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi.

Chữ Yêu là 3 chữ
Hận là 3, giống nhau.
Người say men hạnh phúc
Kẻ thành.. Lý Mạc Sầu.

Bạn bè có 5 chữ
Kẻ thù đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật,
Hôm nay chìa dao găm.

Từ Vui có 3 chữ
Tiếng Sầu cũng đồng như.
Quá vui thường mất trí,
Mất trí đời đổ hư.

Chữ Khóc có 4 chữ
Cười cũng vậy, giống in
Ai "giòn cười, tươi khóc''
Ấy cảm thọ nhận chìm.

Chữ Đạo gồm 3 chữ
Đời cũng rứa, là ba
Đời thường hay ôm giữ
Đạo buông xả, cười xòa.

Cuộc sống là hai mặt
Giới tuyến một đường tơ .
Chấp nhận mà không vướng
Nhẹ bước qua hai bờ.

Thích Tánh Tuệ

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Quan điểm của Đức Phật về các mối quan hệ


" Không phải vẻ bề ngoài hay một ấn tượng tốt đẹp thoáng qua, thể hiện hình ảnh thực sự của một con người "
*


Quan điểm của Đức Phật về các mối quan hệ

Sự chọn lựa kỹ càng người để chúng ta giao tiếp thân mật, gần gũi là điều cực kỳ quan trọng trong giáo lý của Đức Phật đối với người cư sĩ.  Thật ra, Ngài đã có lần khuyên các đệ tử của mình hãy chọn một cuộc sống độc cư, giống như cuộc sống của một ‘con độc giác cô đơn", nếu họ không thể tìm được những người thích hợp để làm bạn.
Đức Phật đã nhấn mạnh rằng việc khéo chọn lựa các mối liên hệ mật thiết là quan trọng vì nó đóng góp vào việc thiết lập những mối liên hệ thân ái và bền vững.  Để chọn người thích hợp, Đức Phật đã đề ra một quy trình bao gồm một số giai đoạn.  Các giai đoạn này đã được nhắc đến xuyên suốt trong các kinh tạng.  Chúng được tổng hợp ở đây để giúp chúng ta có một sự hiểu biết thấu đáo về lời Đức Phật dạy trong việc chọn lựa bạn hay các mối tương giao như thế nào.

Những lời hướng dẫn này không có ý khuyên ta nên xa lánh những người “không thích hợp”.  Đức Phật chẳng bao giờ cho phép đệ tử của Ngài được trách cứ người thô lỗ, khó chịu, hoặc không tương xứng.  Trái lại, Đức Phật khuyên họ phải hiểu bản tính của người đó, để thể hiện lòng bi mẫn, và để dành cho người đó một cơ hội để sửa đổi.  Tuy nhiên, khả năng tương thích là một điều kiện quan trọng trong việc chọn người để kết thâm giao.  Giáo lý của Đức Phật nhằm làm cho nỗ lực này được dễ dàng.



Bước 1:  Hãy để qua một bên các tiêu chuẩn cỗ hủ vô căn cứ

Các quan điểm cổ xưa trong thời Đức Phật cho rằng giống nòi và giai cấp phải là yếu tố chính trong việc chọn người để thắt chặt thâm giao, kể cả việc hôn nhân.  Thí dụ, người thuộc giai cấp Shudra chỉ có thể liên hệ thân thiết với những người Shudra khác.  Nhất là trong vấn đề hôn nhân, họ chỉ có thể chọn lựa người thuộc giai cấp của mình.  Đức Phật đã khởi xướng một phong trào dài hơi, hiệu quả, chống lại những niềm tin vô lý này.  Có lần Đức Phật đã nói rằng: Ta không nên hỏi người khác về giai cấp hay nòi giống của họ để làm tiêu chuẩn chấp nhận hay xa lánh người đó.[3]  Và Ngài khuyến khích các đệ tử của Ngài hãy để qua một bên vấn đề nòi giống, giai cấp, giới tính, và vẻ bề ngoài khi chọn lựa người để kết thâm giao.

Thái độ minh bạch này rất quan trọng không chỉ trong việc kết bạn thâm giao mà còn được dùng trong việc chọn lựa người phối ngẫu.  Giai cấp, nòi giống, và những khác biệt xã hội khác không bao giờ nên là rào cản trong hôn nhân hay những liên hệ mật thiết khác.  Và khi thảo luận về những yếu tố để có được một cuộc hôn nhân tốt đẹp, Đức Phật chẳng bao giờ khuyên người đệ tử tại gia chọn lựa người phối ngẫu chỉ dựa trên giai cấp, nòi giống, hay thành phần xã hội của họ.  Thay vào đó, sự tương đồng về cách cư xử, giao tế là một trong những yếu tố chính mà Đức Phật nhấn mạnh đến trong việc thiết lập một quan hệ hôn nhân tốt đẹp.

Đức Phật, xuyên qua giáo lý của mình, đã nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của việc thiết lập liên hệ mật thiết với mộtbala, hay là một người chưa trưởng thành và không tương đồng.[4]  Trái lại, một pandita, là người đã hoàn toàn trưởng thành và tương đồng.  Đức Phật khuyên nên chọn một người như thế cho những mối liên hệ gần gủi và có thể lựa chọn một cách không phân biệt từ bất cứ giai cấp, nòi giống hay thành phần xã hội nào.  Đức Phật luôn khẳng định rằng không phải việc ta sinh ra ở đâu, thuộc giai cấp nào, mà cách hành xử đúng và sự tiến bộ tâm linh mới là những yếu tố quyết định giá trị của một con người.[5]
Tương tự, theo Phật giáo, giới tính cũng không phải là rào cản để người nam và người nữ không thể duy trì bất cứ mối liên hệ thân thiết nào vì mục đích chung.  Thí dụ, các vị đệ tử xuất gia của Phật, tăng và ni, vẫn duy trì sự liên hệ thân thiết vì mục đích chung là đạt được sự tự thanh tịnh và truyền bá lời Phật dạy trong xã hội.
Hơn thế nữa, Đức Phật khuyên rằng các vị ni cần sống gần các vị tăng vì vấn đề an toàn và để được tư vấn, và các vị tăng cần thường xuyên thăm viếng và trao đổi với các vị ni.[6]   Sự liên hệ này được dựa trên sự hiểu biết về các mục tiêu của mỗi người hơn là sự bám víu lẫn nhau.  Cả hai phái được khuyên cần phải chánh niệm về tình cảm của mình và luôn kiểm soát chúng.
Tóm lại, bước đầu tiên trong việc chọn lựa những mối tương giao gần gủi thích hợp và thiết lập các mối liên hệ mật thiết là không được kể đến giai cấp, thứ bậc, nòi giống, thân phận và những yếu tố tương tự để làm tiêu chuẩn.  Theo quan niệm của Đức Phật, những yếu tố này không có căn cứ để biện hộ cho sự chọn lựa của họ.

Bước 2:  Hãy cẩn thận với ấn tượng ban đầu về người khác
Trong khi Đức Phật bác bỏ các tiêu chuẩn dựa trên quan niệm cổ hũ để chọn lựa người giao tiếp, Ngài cũng không tán đồng sự lựa chọn dựa trên những ấn tượng ban đầu và tình cảm ban sơ.   Thí dụ, một số người có thể rất khéo léo trong việc tỏ ra họ là người hoàn toàn thích hợp cho một mối liên hệ hoàn hảo.  Nhưng chúng ta cần kiềm chế việc vội vàng kết luận rằng sự tự phác họa đó của họ là phản ánh chân thực về bản chất thực sự của họ.  Đức Phật đã nói hai câu kệ sau đây để tóm tắt nhận định này:
Không thể biết rõ tha nhân bằng vẻ bề ngoài của họ,
Mà cũng khó tin tưởng họ sau ấn tượng ban đầu.
Đúng vậy, kẻ vô đạo đức có thể rong chơi khắp nơi
Trong bộ áo của người đạo đức.
Có người điểm trang thói xấu của mình
Bằng hành động thanh cao giả dối
Giống như đôi bông tai bằng đồng, bằng đất
Được tô vàng sáng chói.[7]
Thêm nữa, vẻ bề ngoài của ai đó cũng không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để dựng nên một chân dung thực sự của họ.  Để nói đến vẻ bề ngoài, Đức Phật dùng thuật ngữ vannarupa, có cả hai nghĩa là “vẻ bề ngoài”, và “hành vi”.  Kể cả vẻ bề ngoài đứng đắn và hành động có văn hóa cũng không đủ để đánh giá một con người.
Ngoài ra, sự quen biết ngắn ngủi cũng không thể giúp ta hiểu biết rõ ràng về ai đó.  Đức Phật dùng thuật ngữittaradassana, có nghĩa đen là “thấy ít”, để ám chỉ một cuộc tiếp xúc, gặp gở ngắn ngủi.  Thật vậy, một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi không thể phản ánh hành vi, tư duy thực sự của một người, vì trong một thời gian ngắn, người ta có thể che dấu bản chất thực sự của họ một cách khéo léo.
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng lời khuyên này không có nghĩa rằng những người dễ thương, lịch sự lúc mới quen biết rất đáng nghi ngờ –vì những người bản tính hòa nhã có thể ngay lập tức biểu lộ bản chất của mình như thế.

Bước 3:  Hãy tuân thủ quy trình của việc kết giao, quán sát và đánh giá
Trong khi bác bỏ các tiêu chuẩn không đầy đủ chứng cứ như đã trình bày trên đây, Đức Phật hướng dẫn cho đệ tử của Ngài một quy trình đơn giản để có thể hiểu người khác tốt hơn –và từ đó chọn lựa những người tương hợp để kết thâm giao.  Điều này, ngược lại sẽ đóng góp vào việc thiết lập những mối liên hệ bền chặt và lành mạnh.  Quy trình đơn giản này như sau:

Kết giao với người trong một thời gian.
Quan sát và đánh giá lời nói và hành động của người đó.[8]
Đức Phật đã giải thích quy trình này cho vua Kosala khi đức vua, có thể muốn trêu cợt, đã giới thiệu với Đức Phật một nhóm cận vệ bí mật của ông là các vị chân tu đạo hạnh.  Vua Kosala trước hết chào hỏi những người gián điệp này một cách kính trọng trước Đức Phật.  Rồi sau khi họ đi khuất, nhà vua nói với Đức Phật: “Các vị tu sĩ đó đã chọn con đường tiến bộ tâm linh”.  Đức Phật trả lời rằng sự phán đoán của nhà vua có thể sai vì nhà vua không có đủ chứng cớ hỗ trợ cho nhận xét của mình.
Sau đó Đức Phật giải thích:  “Với mối liên hệ thân thiết, ngài có thể [bắt đầu để] hiểu việc giữ giới luật, sự trong sạch và trí tuệ của người khác.  Tuy nhiên, sự liên hệ đó cần phải trải qua một khoảng thời gian không ngắn ngủi”[9].  Đức Phật nhấn mạnh rằng những sự giao tiếp  ngắn ngủi không đủ để giúp ta biết được người khác.
Với thời gian, con người sẽ tự biểu lộ; và chúng ta cần phải giao tiếp, quán sát hành vi của họ chặt chẻ để hiểu rõ hơn về bản chất thực sự của họ.  Sau đó, chúng ta có thể suy nghĩ, so sánh và đối chiếu với hành vi đã được quán sát.  Để làm rõ hơn quy trình này, Đức Phật dùng thuật ngữ manasikaroti, có nghĩa là “suy nghĩ”, “giữ trong tâm”, và “nghĩ lại” –nói chung, có nghĩa là “sự đánh giá hành động”.
Theo Đức Phật, một yếu tố quan trọng cho bất cứ sự đánh giá đúng đắn nào là trí tuệ.  Từ Pali được dùng trong ý nghĩa này là pannavata, có nghĩa “bởi người sử dụng cái trí, kỹ năng và trí tuệ”.  Sự đánh giá cần phải có một căn bản hợp lý.  Chúng ta có thể so sánh, đối chiếu và giải mã nhiều hình thức khác nhau của hành vi mà chúng ta đã quán sát; điều này cho phép chúng ta có được một bức tranh rõ nét về người mà ta đã biết trong một khoảng thời gian.
Điều quan trọng của sự đánh giá này nằm trong kết luận rằng chúng ta cần phải tìm người có nhân cách hoàn chỉnh để thiết lập mối liên hệ mật thiết.  Như đã nói trong chương trước, Đức Phật dạy rằng tất cả những sự sợ hãi và lo âu phát xuất từ những người chưa đủ trưởng thành, chưa phát triển đầy đủ, chứ không phải từ những người có trí tuệ.[10]  Việc đánh giá đúng hành động của tha nhân sẽ giúp chúng ta tìm ra những người có trí tuệ khiến ta không phải lo âu hay sợ hãi.

Bước 4:  Quan tâm đến sự tương đồng
Mục đích của quy trình kết bạn, quán sát, đánh giá, là để quyết định xem đối tượng có thích hợp để chúng ta thiết lập mối quan hệ.  Vấn đề ở đây là sự tương đồng.  Để duy trì những mối liên hệ lành mạnh, Đức Phật bảo rằng các đối tượng liên quan cần phải tương đồng.
Theo Đức Phật, “tương đồng” không có nghĩa là hai người phải thuộc cùng một giai cấp xã hội, hay nòi giống như đã nói ở trên, Ngài không chấp nhận những quan điểm xã hội này, coi chúng là vô căn cứ, nông cạn.  Theo quan điểm của Đức Phật, tương đồng, tương xứng có nghĩa là hai người có những hành động và cư xử giống nhau.  Tìm ra những điểm tương đồng này là mục đích của cả quy trình kết bạn, quán sát và đánh giá.  Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất quan trọng của sự tương đồng trong mối quan hệ hôn nhân hạnh phúc.

* Bốn khía cạnh của sự tương đồng
Đức Phật dạy rằng hai thành viên có thể phù hợp với nhau, khi họ có bốn điều giống nhau sau đây:
- Cùng có lòng tin vào việc phát triển tâm linh
- Cùng có lòng tôn trọng giới luật
- Cùng có lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo
- Cùng có trình độ hiểu biết tương tự.[11]

Những sự giống nhau này rất quan trọng để có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc đến nỗi chúng ta cần xem xét chúng kỹ lưỡng.

- Cùng có lòng tin vào việc phát triển tâm linh
Để thiết lập và duy trì một mối liên hệ lành mạnh, cả hai đối tác cần phải có niềm tin tương tự về sự phát triển tâm linh (ubho janapatiyo samasaddha).  Điều này không có nghĩa là cả hai cần phải ráo riết theo đuổi con đường tâm linh.  Tuy nhiên, nó ngụ ý rằng nếu một thành viên có sự kính trọng sâu sắc đối với niềm tin và sự thực hành tâm linh, mà người kia hoàn toàn không màng đến chúng, thì hai người này không thể tương đồng.

- Cùng có lòng tôn trọng giới luật
Theo sự quán sát của Đức Phật thì sự tương đồng kế tiếp là cả hai đối tác cần phải có cái nhìn tương tự đối với việc tự kiềm chế, tự kỷ luật (samasila).  Khi một thành viên rất có đạo đức mà người kia không có đạo đức, thì sự không tương xứng của họ trở nên tương phản và sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong mối liên hệ của họ.
Khi có dịp, chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn về những gì mà Đức Phật muốn ám chỉ khi nói về “sự tự kiềm chế” của người cư sĩ.  Nói ngắn gọn là sự tôn trọng đối với việc gìn giữ giới luật như là không sát hại và không trộm cắp là thí dụ của việc tự kiềm chế.  Nếu một thành viên quan tâm và gìn giữ giới luật rất nghiêm chỉnh, thì người phối ngẫu của họ cũng cần phải như thế.  Sự tương đồng này sẽ khiến cho mối liên hệ của họ được dễ chịu và êm thắm.

- Cùng có lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo
Một dấu hiệu khác của sự tương đồng được Đức Phật nhắc đến là lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo.  Nhiều người có bản tánh ích kỷ, trong khi người khác thì có lòng nghĩ đến tha nhân.  Một cuộc hôn nhân trong đó hai người phối ngẫu thuộc về hai bản tánh khác nhau như thế thì đó có thể là một sự phối hợp lầm lẫn, vì sự hành xử và thái độ của họ sẽ không tương đồng.
Theo Đức Phật, các hoạt động nhân đạo hay dana, còn được biết đến như là caga (hành động rộng lượng, nhân từ), là những hành động tự nguyện của người cư sĩ đối với xã hội.  Dana (hạnh bố thí) có ba cách: bố thí tiền bạc, của cải vật chất; giúp bảo vệ sinh mạng; dạy dổ và hỗ trợ tinh thần, hướng dẫn, dìu dắt.  Khi người chồng hay vợ sẵn sàng còn người kia thì miễn cưỡng khi thực hành dana cho ta thấy sự không tương xứng rõ rệt giữa hai người.

- Cùng có trình độ hiểu biết tương tự
“Trí tuệ” trong Phật giáo có rất nhiều nghĩa, bao gồm, tri thức, khả năng, sức mạnh tinh thần, sự trưởng thành về tình cảm, thái độ tiến bộ và khả năng lý luận.  Sự giống nhau trong các lãnh vực này (samapanna) thể hiện sự tương đồng giữa hai thành viên.  Điều này không có nghĩa là cả hai phải có cùng trình độ học vấn, khả năng tư duy, vân vân; nó chỉ có nghĩa là sự khác biệt quá rộng trong những lãnh vực này sẽ khiến họ không tương xứng và sẽ dẫn đến những xung đột trong mối liên hệ của họ.  Đức Phật nhắc nhở các đệ tử tại gia của Ngài cần phải lưu tâm đến yếu tố này khi chọn lựa người phối ngẫu.

Tóm tắt
Đức Phật đã ban cho cộng đồng cư sĩ những lời hướng dẫn rất hữu ích trong việc chọn lựa các mối quan hệ bằng hữu và hôn nhân.  Ngài khẳng định rằng các quan niệm cổ hũ, khuôn sáo về con người không giúp ta trong việc chọn hay xa lánh người khác khi kết thân.  Tương tự, cảm tính và những ấn tượng ban đầu cũng không phải là những tiêu chuẩn đáng tin cậy để phán đoán sự tương xứng của con người.  Thay vào đó, Đức Phật khuyên, hãy kết bạn, quán sát, và phán đoán hành động của tha nhân sẽ giúp ta quyết định xem họ có thích hợp để kết mối thâm giao không.  Nhất là trong việc chọn lựa đối tượng để kết hôn, cần được dựa trên sự tương xứng lẫn nhau.  Cùng có lòng tin vào sự phát triển tâm linh, giới luật và các hoạt động nhân đạo, cũng như một trình độ hiểu biết tương xứng, sẽ xác định được sự tương đồng của hai người phối ngẫu.

 Tỳ kheo Tiến sĩ Basnagoda Rahula
 Diệu Liên Lý Thu Linh Chuyển ngữ
" Lời dạy của Đức Phật về sự thành tựu trong gia đình, nơi công sở, ngoài xã hội " 

* Tăng Chi Bộ Kinh
* Chùa Linh Ẩn,Hàng Châu ,Trung Quốc - nơi tu tập của Tế Điên Hòa Thượng
*Chú thích:
[1] Câu trích từ Samyutta Nikaya I (Tương Ưng Bộ Kinh):  Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila, 173-174
[2] Sutta Nipata (Kinh Tập): Phẩm Uraga: Kinh Khaggavisana
[3] Samyutta Nikaya I (Tương Ưng Bộ Kinh I): Brahmana Samyutta: Kinh Sundanka, 262-263
[4] Anguttara Nikaya I (Tăng Chi Bộ Kinh I): Phẩm Bala
[5] Sutta Nipata (Kinh Tập): Uraga : Kinh Vasala
[6] Tăng Chi Bộ Kinh VIII:  Phẩm Gotami: Kinh Gotami
[7]Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila 173-174
[8] Như trên
[9] Như trên
[10] Tăng Chi Bộ Kinh VIII:  Phẩm Bala, Kinh Bhaya
[11] Anguttara Nikaya IV (Tăng Chi Bộ Kinh IV): Phẩm Punnabhisanda: Kinh Pathama Samajiva