Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Sang Thu

Gió may nổi bờ tre buồn xao xác
Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
...

Anh Thơ

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Đồng bệnh tương lân


Có anh đại gia đi con Mẹc xịn, sau khi đánh giầy xong thì rút hẳn tờ 500 ngàn ra để trả công…đánh đôi giầy. Chú đánh giầy choáng quá mới hỏi :
- sao...bác lại cho em nhiều thế ?
Anh kia liền nói :
- chú em cứ cầm đi, đừng ngại.  Vì tôi trông chú em cũng sáng sủa, không đến nông nỗi nào… làm tôi lại nhớ đến… mình ngày xưa…nói thật với chú em…trước kia, tôi cũng đánh giầy như chú em… nhờ đầu tư chứng khoán mà tôi mới có được ngày hôm nay.
Chú đánh giầy nghe vậy,  mặt dài thuỗn ra…thẫn thờ  … rơm rớm nước mắt, và… dứt khoát không chịu nhận tờ 500 ngàn.
- anh ... em mình đúng là đồng cảnh ngộ với nhau… chả dấu gì bác …trước đây nhà em cũng đã từng là đại gia chứng khoán oanh liệt một thời đấy …bác ạ!
- ! ! !
-st-

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

Bài ca phiêu lưu

" Hiểu cho nhau sống đã là ... phiêu lưu "



 BÀI CA PHIÊU LƯU

Xin em đừng nản lòng yêu
Tình tang là cuộc phiêu lưu tuyệt vời
Xin em đừng ngán cuộc chơi
Phiêu lưu đã nhất trần đời là mơ
Xin em đừng mỏi mong chờ
Phiêu lưu tới bến tới bờ còn xa
Xin em đừng vội vã già 
Hiểu cho nhau sống đã là ... phiêu lưu.

Nguyễn Duy

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2016

Giành chính quyền & những truyện bên lề

GIÀNH CHÍNH QUYỀN & NHỮNG TRUYỆN BÊN LỀ

I. Chính quyền Bảo Đại và Trần Trọng Kim 

Chính phủ Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại thành lập sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945 kể cả thời gian xử lý thường vụ.Tổng cộng hơn bốn tháng, nói gì thì nói, về mặt lịch sử, vẫn phải công nhận Nội các vừa thành lập ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại, và Trần Trọng Kim đã trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí thức tên tuổi, có trình độ học vấn cao, nhiệt tâm, trong sạch và yêu nước, nhưng tất cả đều thiếu hẳn kinh nghiệm quản lý và nhất là sự lọc lõi chính trị trong thời loạn.

...

" Tai nạn lịch sử " là chữ của Vũ Ngự Chiêu dùng để gọi chính phủ Trần Trọng Kim vì theo ông nó “được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật”. Nhận định này không chỉ đúng với hoàn cảnh đương thời mà đúng luôn cả cho hoàn cảnh, tâm tư của chính Trần Trọng Kim và luôn cả vị hoàng đế đương thời là vua Bảo Đại. Cả hai đều bị đặt vào thế “chẳng đặng đừng”, nói theo lối của người Miền Nam. Cả hai đều không trông đợi, nói theo ngôn ngữ bình thường. Riêng Trần Trọng Kim, với bản chất là một nhà giáo ( tác giả bộ sách Giáo Khoa Thư mà đến hiện tại người ta vẫn còn in lại và vẫn còn ưa đọc và viết nhiều về nó ) một nhà nghiên cứu về lịch sử, triết học, một dịch giả của thơ Đường, tác giả cuốn “ Việt Nam Sử Lược “ - một tác phẩm vừa là giáo khoa, vừa là nghiên cứu phổ thông cho đến nay vẫn còn được nhiều người tin cậy và cẩn trọng giữ gìn, đã tỏ ra chẳng bao giờ mong đợi, với tuổi ngoài sáu mươi của thời đó, ít nhất đã hai lần từ chối để nhường chỗ cho Ngô Đình Diệm và một lần từ chức nhưng luôn luôn ở vào thế “chẵng đặng đừng” phải chấp nhận đứng ra lập chính phủ hay ở lại để xử lý thường vụ trong tất cả mọi giới hạn của nó. Bảo Đại cũng vậy, trong hồi ký của vị thủ tướng bất đắc dĩ có kể lại rằng:  sau gần mười ngày chờ đợi và cứ cách ba bốn hôm ông lại đến gặp cố vấn tối cao Nhật để hỏi tin tức ông Diệm để được trả lời là “chưa biết ông Diệm ở đâu” sau là “ông Diệm đau chưa về được”, rồi vì Bảo Đại “sốt ruột, triệu tôi vào bảo chịu khó lập chính phủ mới”. Tâm sự của hai người đã được giãi bầy qua lời kể lại sau đây:

“Ngài nói :- Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng: - Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong Ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin Ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.) 

Và Trần Trọng Kim đã thành lập được một chính phủ với danh sách các bộ trưởng được đệ trình lên nhà vua vào sáng ngày 17 tháng 4 năm 1945.

...

( Trích : “ 70 năm nhìn lại " của Phạm Cao Dương   )

 

II. Lựa chọn đúng đắn của chính phủ Trần Trọng Kim 

Nội các Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh nghiệm, song đều là những nhà trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền cố vị. Trước tình thế rối ren của Cách mạng Tháng Tám, Thủ tướng Kim được quân đội Nhật cho biết họ "còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân đội đồng minh đến thay," nhưng ông đã từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ chính phủ và muốn duy trì trật tự vì muốn tránh đổ máu và rối loạn. Trước đó, trong chuyến đi ra Hà Nội để điều đình với Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuitsu để lấy lại Nam Kỳ và các cơ sở chủ quyền còn lại, Trần Trọng Kim đã tìm hiểu kỹ lưỡng về Mặt trận Việt Minh đang gây thanh thế ở miền Bắc. Ông nhận định rằng "Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái có chung mục tiêu giành lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam ở đâu cũng có người theo… Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỉ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như hội truyền bá quốc ngữ khi mới lập thành ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỉ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh". Chính vị Khâm sai miền Bắc Phan Kế Toại và một số Bộ trưởng trong chính phủ Kim cũng bắt đầu có thiện cảm với Việt Minh.

So sánh một lực lượng cách mạng đã hoạt động lâu năm có ảnh hưởng trong quần chúng và đang có thời cơ với một chính phủ trí thức yêu nước nhưng mới ra đời được bốn tháng, chưa có đủ quyền hành, chưa kịp có quân đội, Trần Trọng Kim đã quyết định đúng khi ông không nhờ quân đội Nhật can thiệp, một quân đội lúc đó đã mất hết tinh thần đang chờ bị tước khí giới và giam giữ. Ông đã thực hiện phương châm "khả hành khả chỉ" trong chính trị học Khổng giáo để biết "lúc nào nên làm, lúc nào nên thôi". Bởi vậy, sau khi giành được chính quyền, Mặt trận Việt Minh đã không những không bắt bớ hay trả thù một người nào trong chính phủ Kim mà còn lôi cuốn được một số Bộ trưởng gia nhập mặt trận kháng chiến chống Pháp, mặc dù trước đó đã lên án chính phủ này là "bù nhìn" và "Việt gian". Chính phủ Kim mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chính Pháp để nắm lấy quyền cai trị nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh, cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó. Khoảng tháng 6 - 1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho Việt Nam, ông đã nói: "Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui". Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì Chính phủ Kim phải ra đi.

 Nhiều người trách chính phủ Trần Trọng Kim là nhu nhược, không dám đối phó với Việt Minh sau ngày 19 - 8 - 1945 mặc dù nhà cầm quyền Nhật đã báo cho Thủ tướng Kim biết là "quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay". Thật ra, quyết định của Bảo Đại và Trần Trọng Kim không nhờ Nhật can thiệp là đúng vì ba lý do chính: 

1. Quân đội Nhật đã đầu hàng. Không có một lý do hay động lực nào khiến họ thấy cần phải chiến đấu để bảo vệ một chính phủ địa phương đang thất thế. Trách nhiệm "giữ trật tự" của quân đội Nhật sẽ chỉ có hiệu lực lúc đầu và họ sẽ phải nhượng bộ hoặc xung đột với cao trào đòi độc lập của những đoàn thể thanh niên, sinh viên và dân chúng do Việt Minh tổ chức. Thời gian "giữ trật tự" để chờ quân đội đồng minh lại rất ngắn (khoảng hai tuần lễ) và chính phủ Trần Trọng Kim sẽ không thể chối bỏ được trách nhiệm về những cuộc đổ máu của dân Việt Nam do quân Nhật gây ra. 

2. Việt Minh đã thành công lớn trong chiến dịch tuyên truyền là được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt chỉ trích chế độ thực dân của Pháp, sự thành lập "bộ đội Việt - Mỹ" từ chiến khu Tân Trào với sự hiện diện của các sĩ quan OSS, và tấm hình tướng "Cọp Bay" Chennault ký tặng Hồ Chí Minh ở Côn Minh đã được Việt Minh sử dụng và thuyết phục được đại đa số nhân dân ủng hộ. Luật sư Trịnh Đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Kim, còn được tin là "đại uý Landsdale, phụ tá của thiếu tá Archimedes Patti, trưởng đoàn OSS ở vùng Đông Nam á… thay vì tiếp tế cho những nhóm quân của Pháp còn đang chiến đấu (chống Nhật) trong rừng miền biên giới, lại thả dù vũ khí và đạn dược xuống cho Việt Minh để trang bị cho một tiểu đoàn đầu tiên, và phái Aaron Bank tới huấn luyện cho bộ đội của Hồ Chí Minh".

3. Việt Minh đã chiếm được các cơ sở chính quyền, Hồ Chí Minh đã thành lập Chính phủ lâm thời, Khâm sai Bắc Bộ là Phan Kế Toại đã từ chức, đoàn Thanh niên Tiền tuyến và lính bảo an nhiều người đã đi theo Việt Minh. Thư của Bảo Đại gửi cho Truman và De Gaulle kêu gọi ủng hộ chính nghĩa quốc gia đều không được trả lời. Trong tình trạng thất thế và cô đơn trước khí thế sôi sục của "cách mạng", Bảo Đại cùng Hoàng gia có thể bị lâm vào số phận của Louis XVI sau Cách mạng Pháp 1789 hay Nicholas II hồi Cách mạng Nga 1917. Quyết định thoái vị của Bảo Đại là một quyết định sáng suốt, thức thời, tránh được đổ máu vô ích của nhân dân nếu ông nhờ Nhật dẹp Việt Minh.

Trong thời gian quá ngắn phục vụ đất nước, chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích, trái lại, đã thực hiện được nhiều thành tích đáng kể nhất là việc lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành được việc thống nhất đất nước . Tất cả những điều đó cho thấy Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim không phải là "bù nhìn" của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn toàn, vẫn là một thực tại chứ không phải "bánh vẽ", nhất là so với những điều kiện của một "quốc gia tự do" và viễn tưởng thống nhất mơ hồ như trong Hiệp định sơ bộ 6 - 3 năm 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao uỷ Bollaert.

Sai lầm chính trị, đúng ra là một nhược điểm, đáng nói đến là Trần Trọng Kim đã không thực hiện được sách lược "bắt cá hai tay" của Thái Lan mà Pridi Banomyong đã chia sẻ. Điều đó có nghĩa là trong khi chính phủ Kim giữ thái độ trung lập chính trị đối với Nhật thì đáng lẽ đã phải có những nhân vật chính trị khác đi với Anh, Mỹ để chống Nhật và để thay thế chính phủ Kim khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng khác với Thái Lan, Việt Nam còn phải đối phó với Pháp, khi đó cũng là một thành phần của Đồng minh, đang quyết tâm trở lại Đông Dương. Công việc vận động Đồng minh lại rất khó khăn vì Anh là một đế quốc tất nhiên ủng hộ Pháp chinh phục lại các thuộc địa cũ trong khi mối quan tâm chính của Hoa Kỳ lúc đó là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô Âu châu. Dù sao, đó cũng chính là lầm lỗi của các đảng phái quốc gia nói chung, không có một tầm nhìn rộng rãi về chính trị thế giới sau Thế chiến thứ hai, không hợp tác được với nhau để có một sách lược chung

...

( Trích : “ Huế năm 1945 và chính phủ Trần Trọng Kim " của Lê Xuân Khoa 

 

III. Giành chính quyền

Ở Hà Nội, sáng ngày 17/8/1945, Tổng hội công chức của Chính phủ Trần Trọng Kim đã tổ chức một cuộc mít tinh đông tới hàng chục ngàn người tại Nhà hát lớn để bày tỏ ý chí bảo vệ tổ quốc. Cuộc mít tinh vừa bắt đầu thì một nữ thanh niên trí thức xưng tên là Nguyễn Khoa Diệu Hồng leo lên khán đài cướp micro, hô khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh“ và một người khác rải một lá cờ đỏ sao vàng từ trên ban công xuống. Đám đông hô khẩu hiệu hưởng ứng. Từ đó cuộc mít tinh của Tổng hội công chức biến thành cuộc biểu tình của Việt Minh. Hai ngày sau, ngày 19/8/1945, Việt Minh lại tổ chức một cuộc mít tinh khác, có số người tham gia tương tự tại sân phía trước Nhà hát lớn, sau đó kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ để giành chính quyền từ Khâm sai Phan Kế Toại, rồi kéo sang Trại Bảo an binh (còn gọi là trại lính khố xanh) trên phố Đồng Khánh. Một cuộc thương lượng đã được thỏa thuận giữa Sĩ quan chỉ huy người Nhật và đại diện Việt Minh, để Việt Minh treo cờ đỏ sao vàng trên trại Bảo an binh. Từ đó, cuộc giành chính quyền của Việt Minh từ chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội đã thành công.

Trong thời gian này, quân đội đồng minh chưa vào Việt Nam để tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật. Việt Nam vẫn dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của quân đội Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim, từ Thủ tướng đến các khâm sai như Phan Kế Toại, Nguyễn Xuân Chử đều từ chối lời gợi ý của phía Nhật can thiệp, đàn áp Việt Minh để giữ trật tự an ninh. Tối 17/8/1945, Hoàng Xuân Hãn - thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim được

Nguyễn Thành Lê ( người của Việt Minh ) dẫn đến gặp Lê Trọng Nghĩa ( 1 trong 3 nhân vật chủ chốt của Việt Minh ở Hà Nội là Lê Trọng Nghĩa, Trần Tử Bình, Nguyễn Khang ) ở nhà số 101 Trần Hưng Đạo để báo tin đó và đề nghị Việt Minh cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim nhưng bị Việt Minh từ chối. Họ không biết rằng Tổng tư lệnh quân đội Nhật là tướng Tê-Ran-Chi, tại Saigon đã gặp Suharto và Hatta của Indonesia, Aung Sau của Miến Điện, Sơn Ngọc Thành của Campuchia và Phạm Ngọc Thạch là lãnh tụ Thanh niên tiền phong thân Nhật ở Saigon, hứa sẽ giúp các nước này độc lập nên cuộc giành chính quyền của Việt Minh không bị đàn áp. Đặc biệt tướng Tê - Ran - Chi còn cấp máy bay cho Suharto về nước ngay nên Indonesia độc lập sớm trước Việt Nam 2 ngày (sau này có tin nói Việt Nam là nước thuộc địa đầu tiên đã đứng dậy đấu tranh và đưa cách mạng đến thắng lợi là nói lấy được).

Sau khi đã nắm được chính quyền, trước khi quân đồng minh vào Việt Nam, Việt Minh muốn làm gì có liên quan đến trật tự an ninh đều phải được phép của quân đội Nhật, chẳng hạn đội quân giải phóng của Việt Minh từ Thái Nguyên về Hà Nội, muốn qua sông Đuống đã phải xin phép quân đội Nhật. Cuộc giành chính quyền của Việt Minh ở Hà Nội diễn ra không theo quân lệnh số 1 của trung ương ĐCSVN với chủ trương nổ súng vào quân đội Nhật. Khi đã giành được chính quyền ở Hà Nội, ông Hồ Chí Minh còn ở trên Khu căn cứ chưa biết gì. Ông Trường Chinh và ông Võ Nguyên Giáp cũng chưa biết gì. Sau này Lê Trọng Nghĩa kể lại với Trần Đĩnh: ”Tôi trực tiếp đàm phán với Nhật nên tôi biết tuy họ đã hàng đồng minh nhưng ở Việt Nam họ còn rất mạnh và rất oai. Ai nói quân Nhật đã mất tinh thần và tan rã là nói không đúng sự thật. Nếu cứ theo quân lệnh số 1, nổ súng vào quân Nhật thì chắc chắn bị đàn áp và thất bại“. Khi quân đồng minh vào Việt Nam, Việt Minh cũng không có danh nghĩa gì để cùng đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật. Vì vậy nói rằng Việt Minh đã đánh Nhật để giành chính quyền từ tay quân Nhật cũng là nói lấy được.

...

( Trích: “ Đèn Cù " của Trần Đĩnh )

 

19.8.2017

VN Tổng hợp

* Vũ Ngự Chiêu: tiến sĩ sử học Hoa Kỳ, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về lịch sử Việt Nam hiện đại, qua tác phẩm song ngữ Anh Việt: The Other Side of the 1945 Revolution: The Empire of Viet-Nam (3-8/1945), A new Interpretation – Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945: Đế Quốc Việt-Nam (3-8/1945)

* Lê Xuân Khoa, quốc tịch Mỹ, gốc Việt, nguyên Phó viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, tiến sĩ triết học. 

* Phạm Cao Dương: Giáo sư, Tiến sỹ dạy môn Lịch sử và Văn hoá Việt Nam tại một số Đại học Mỹ

* Trần Đĩnh: Nhà Báo, cựu cán bộ Việt Minh

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

Bởi còn thiếu một nén nhang


Trong Đại Hùng Bảo Điện nguy nga đồ sộ, có một cậu thiếu niên đang dâng hương cầu khẩn Phật Tổ. Cậu cắm ba nén nhang vào trong lư hương, thầm cầu khẩn rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ con thi đậu khoa cử, thăng quan tiến chức, tận trung báo quốc, tạo phúc cho người dân trong làng”. Nói xong lại bái lạy vài lần, lúc này mới đứng dậy rời đi. Phật Tổ nhìn cậu thiếu niên bên dưới chỉ cười mà không nói gì, tôn giả A Nan đứng bên cạnh hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, cậu thiếu niên này vô cùng thành khẩn, lời nguyện phát ra lại là nguyện lành, vậy sao Người không nhận lời?”. Phật Tổ chỉ mỉm cười, chậm rãi nói: “Bởi còn thiếu một nén nhang”.
- “Còn thiếu một nén?”, tôn giả A Nan nhìn ba nén nhang vẫn còn trong lư hương, nghĩ mãi vẫn không hiểu được.
Thoáng một cái đã mười năm trôi qua, cậu thiếu niên ngây ngô ngày nào giờ đã trở thành một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, khí phách oai hùng. Kỳ thi năm đó tuy chàng không thi đậu, nhưng ngược lại chàng đã vứt bút tòng quân, trở thành một viên võ tướng, đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong quân đội. Lần này về lại quê làng, là đặc biệt trở về cử hành hỷ sự. Chàng thanh niên vẫn giống như trước đây, thắp ba nén nhang đàn hương, cung kính quỳ lạy trước tượng Phật rằng: “Nguyện cầu Phật Tổ phù hộ cho hạ quan kết được một mối duyên lành, thê tử hiền thục, vợ chồng hòa thuận”. Vừa nói vừa dập đầu sát mặt đất.
Tôn giả A Nan nhìn thấy màn này thì rất xúc động, quay đầu lại nhìn thấy Phật Tổ vẫn mỉm cười không nói gì, lại bèn hỏi rằng: “Thưa Phật Đà, sao Người lại không nhận lời anh ta?”. Phật Tổ cười nói: “Vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Nháy mắt lại mười năm đã trôi qua, chàng thanh niên giờ đã bước vào tuổi trung niên. Khi ông đi vào Đại Hùng Bảo Điện lần nữa, trên gương mặt đã phảng phất hiện ra mấy nếp nhăn. Bởi bị gia tộc nhà vợ liên lụy, đại tướng quân oai phong lẫm liệt năm nào, giờ đây đã bị giáng chức làm một viên quan quèn ở địa phương; bao nhiêu chí nguyện lớn lao nay đều không thể thực hiện được nữa. Ông bước vào Bảo Điện dâng hương bái lạy, thầm cầu khẩn, cầu cho con cái của mình có thể chuyên tâm học hành, hoàn thành sự nghiệp dang dở của mình. Tôn giả A Nan nhìn nhìn ông, lại quay sang nhìn Phật Tổ đang mỉm cười không nói gì, trong lòng than rằng: “Rốt cuộc vẫn còn thiếu một nén nhang”.
Mười năm lại trôi qua, người trung niên giờ đây tóc đã hoa râm bước vào tuổi già. Lúc này ông đã giải ngũ về làng, sống an cư nơi thôn dã, không còn chí nguyện to lớn như ngày trước nữa Người lão niên thắp ba nén nhang đàn hương giống như trước đây, khấu đầu rằng:
“Phật Tổ, ngày trước con đã nhiều lần đến cầu nguyện, nhưng Người trước sau đều chưa từng nhận lời con dù chỉ một lần. Nhưng một lần này đến đây xin Người hãy thành toàn cho tấm lòng hiếu thảo của con. Nghĩ đến ngày trước, cha con mất sớm, là mẹ già trong nhà đã vất vả nuôi nấng con khôn lớn thành người. Bây giờ mẹ già tuổi đã cao, chỉ mong bà có thể bình an vô sự, vui vẻ sống quãng đời còn lại, ngoài điều này ra không còn cầu mong gì hơn nữa”.
Tôn giả A Nan nghe thấy những lời này thật không đành lòng, quay đầu nhìn sang Phật Tổ, lại phát hiện trên gương mặt Phật Tổ đã nở nụ cười, nhẹ nhàng gật đầu: “Vậy sẽ như nguyện của con vậy”.
Người lão niên đi ra khỏi chùa, còn chưa về đến nhà, tin mừng đã từ xa truyền lại, hai người con trai của ông lại cùng lúc thi đậu văn võ trạng nguyên trong triều, hơn nữa triều đình còn ban bố chiếu thư rửa sạch nỗi oan của ông, để cho ông khôi phục chức quan, còn thăng lên ba bậc nữa. Nhưng lần này người lão niên cuối cùng đã không nhận lệnh. Ông đã quyết định từ nay ở lại trong nhà chăm lo cho mẹ già.

* Lời bàn : Con người ta cả một đời đứng trước tượng Phật chỉ chăm chú cầu khẩn cho những lợi ích, danh vọng của bản thân mình, nhưng rốt cuộc vẫn là còn “ thiếu một nén nhang ”. Người xưa có câu rằng “Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”, tấm lòng hiếu thuận của người con quả thật có thể làm cảm động Đất Trời.
-st-

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2016

Dưa lê


Bò cày ruộng trở về, mệt quá nằm lăn ra đất nghỉ, thở phì phò. Chó đi ngang qua, thấy vậy bèn dừng lại hỏi han. Bò thở dài, nói:
- Anh bạn à, tôi thực sự mệt quá rồi. Ngày mai tôi không muốn ra đồng nữa, ở nhà nghỉ cho lại sức.
Hai con vật nói chuyện thêm một lúc rồi tạm biệt nhau. Trên đường, chó gặp mèo đang nằm vắt vẻo trên bờ tường. Chó nói:
- Này anh bạn, tôi vừa mới đi thăm bò. Anh ta than mệt, còn nói muốn nghỉ làm một ngày. Kể ra cũng tội, chủ nhân đúng là đã bắt anh ấy làm việc nhiều quá rồi.
Mèo quay người, nói với dê đang ăn cỏ gần đó rằng:
- Anh biết tin gì chưa? Bò trách chủ nhân bắt mình làm nhiều việc nên muốn nghỉ một ngày, mai không ra đồng nữa đấy.

Một lúc sau, dê gặp gà, liền nói:
- Bò không muốn làm việc cho chủ nhân nữa, chị gà mái ạ. Anh ta than là công việc nhiều quá, mệt quá. Hầy, cũng không biết những chủ trang trại khác đối xử với bò của mình có tốt hơn chủ nhân chúng ta không nữa.
Gà lại nói với lợn:
- Anh bò sắp nghỉ làm ở đây rồi. Anh ta muốn đi tìm chủ nhân khác. Ai bảo chủ nhân đối xử với anh ấy tệ quá, bắt làm bao nhiêu là việc, lại còn dùng roi đánh anh ta nữa.
Gà cảm thán vài câu rồi lại tót về chuồng. Một lúc sau, vợ ông chủ đi chuẩn bị cho các con vật ăn tối. Lợn liền lại gần, nói:
- Tôi muốn báo cáo lại với bà một chuyện. Dạo gần đây, bò hay có những suy nghĩ nổi loạn, rất cần phải được dạy bảo lại. Anh ta không muốn làm cho chủ nhân nữa, chê công việc ở đây nhiều quá, nặng quá, khiến anh ta mệt mỏi. Bò còn nói muốn bỏ đi, tìm một chủ nhân khác nữa đấy.Nhận được phản ánh của lợn, trong bữa tối, bà chủ lập tức đem chuyện nói lại với chồng:
- Mình ơi, bò đang muốn tạo phản. Nó muốn đổi chủ, không làm cho mình nữa. Tội tạo phản không thể tha, mình định xử nó thế nào?
- Kẻ phản bội đều đáng tội chết, giết không tha! – Ông chủ nghiến răng, tức giận nói.

Vậy là con bò đáng thương suốt ngày chỉ biết làm việc quần quật, cuối cùng lại bị những lời truyền miệng sai sự thật giết chết như vậy đấy.

-st-

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Hai Mặt


Sự Thật có 6 chữ
Giả Dối cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường!

Tình Yêu có 7 chữ
Phản Bội cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi.

Chữ Yêu là 3 chữ
Hận là 3, giống nhau.
Người say men hạnh phúc
Kẻ thành.. Lý Mạc Sầu.

Bạn bè có 5 chữ
Kẻ thù đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật,
Hôm nay chìa dao găm.

Từ Vui có 3 chữ
Tiếng Sầu cũng đồng như.
Quá vui thường mất trí,
Mất trí đời đổ hư.

Chữ Khóc có 4 chữ
Cười cũng vậy, giống in
Ai "giòn cười, tươi khóc''
Ấy cảm thọ nhận chìm.

Chữ Đạo gồm 3 chữ
Đời cũng rứa, là ba
Đời thường hay ôm giữ
Đạo buông xả, cười xòa.

Cuộc sống là hai mặt
Giới tuyến một đường tơ .
Chấp nhận mà không vướng
Nhẹ bước qua hai bờ.

Thích Tánh Tuệ

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Quan điểm của Đức Phật về các mối quan hệ


" Không phải vẻ bề ngoài hay một ấn tượng tốt đẹp thoáng qua, thể hiện hình ảnh thực sự của một con người "
*


Quan điểm của Đức Phật về các mối quan hệ

Sự chọn lựa kỹ càng người để chúng ta giao tiếp thân mật, gần gũi là điều cực kỳ quan trọng trong giáo lý của Đức Phật đối với người cư sĩ.  Thật ra, Ngài đã có lần khuyên các đệ tử của mình hãy chọn một cuộc sống độc cư, giống như cuộc sống của một ‘con độc giác cô đơn", nếu họ không thể tìm được những người thích hợp để làm bạn.
Đức Phật đã nhấn mạnh rằng việc khéo chọn lựa các mối liên hệ mật thiết là quan trọng vì nó đóng góp vào việc thiết lập những mối liên hệ thân ái và bền vững.  Để chọn người thích hợp, Đức Phật đã đề ra một quy trình bao gồm một số giai đoạn.  Các giai đoạn này đã được nhắc đến xuyên suốt trong các kinh tạng.  Chúng được tổng hợp ở đây để giúp chúng ta có một sự hiểu biết thấu đáo về lời Đức Phật dạy trong việc chọn lựa bạn hay các mối tương giao như thế nào.

Những lời hướng dẫn này không có ý khuyên ta nên xa lánh những người “không thích hợp”.  Đức Phật chẳng bao giờ cho phép đệ tử của Ngài được trách cứ người thô lỗ, khó chịu, hoặc không tương xứng.  Trái lại, Đức Phật khuyên họ phải hiểu bản tính của người đó, để thể hiện lòng bi mẫn, và để dành cho người đó một cơ hội để sửa đổi.  Tuy nhiên, khả năng tương thích là một điều kiện quan trọng trong việc chọn người để kết thâm giao.  Giáo lý của Đức Phật nhằm làm cho nỗ lực này được dễ dàng.



Bước 1:  Hãy để qua một bên các tiêu chuẩn cỗ hủ vô căn cứ

Các quan điểm cổ xưa trong thời Đức Phật cho rằng giống nòi và giai cấp phải là yếu tố chính trong việc chọn người để thắt chặt thâm giao, kể cả việc hôn nhân.  Thí dụ, người thuộc giai cấp Shudra chỉ có thể liên hệ thân thiết với những người Shudra khác.  Nhất là trong vấn đề hôn nhân, họ chỉ có thể chọn lựa người thuộc giai cấp của mình.  Đức Phật đã khởi xướng một phong trào dài hơi, hiệu quả, chống lại những niềm tin vô lý này.  Có lần Đức Phật đã nói rằng: Ta không nên hỏi người khác về giai cấp hay nòi giống của họ để làm tiêu chuẩn chấp nhận hay xa lánh người đó.[3]  Và Ngài khuyến khích các đệ tử của Ngài hãy để qua một bên vấn đề nòi giống, giai cấp, giới tính, và vẻ bề ngoài khi chọn lựa người để kết thâm giao.

Thái độ minh bạch này rất quan trọng không chỉ trong việc kết bạn thâm giao mà còn được dùng trong việc chọn lựa người phối ngẫu.  Giai cấp, nòi giống, và những khác biệt xã hội khác không bao giờ nên là rào cản trong hôn nhân hay những liên hệ mật thiết khác.  Và khi thảo luận về những yếu tố để có được một cuộc hôn nhân tốt đẹp, Đức Phật chẳng bao giờ khuyên người đệ tử tại gia chọn lựa người phối ngẫu chỉ dựa trên giai cấp, nòi giống, hay thành phần xã hội của họ.  Thay vào đó, sự tương đồng về cách cư xử, giao tế là một trong những yếu tố chính mà Đức Phật nhấn mạnh đến trong việc thiết lập một quan hệ hôn nhân tốt đẹp.

Đức Phật, xuyên qua giáo lý của mình, đã nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của việc thiết lập liên hệ mật thiết với mộtbala, hay là một người chưa trưởng thành và không tương đồng.[4]  Trái lại, một pandita, là người đã hoàn toàn trưởng thành và tương đồng.  Đức Phật khuyên nên chọn một người như thế cho những mối liên hệ gần gủi và có thể lựa chọn một cách không phân biệt từ bất cứ giai cấp, nòi giống hay thành phần xã hội nào.  Đức Phật luôn khẳng định rằng không phải việc ta sinh ra ở đâu, thuộc giai cấp nào, mà cách hành xử đúng và sự tiến bộ tâm linh mới là những yếu tố quyết định giá trị của một con người.[5]
Tương tự, theo Phật giáo, giới tính cũng không phải là rào cản để người nam và người nữ không thể duy trì bất cứ mối liên hệ thân thiết nào vì mục đích chung.  Thí dụ, các vị đệ tử xuất gia của Phật, tăng và ni, vẫn duy trì sự liên hệ thân thiết vì mục đích chung là đạt được sự tự thanh tịnh và truyền bá lời Phật dạy trong xã hội.
Hơn thế nữa, Đức Phật khuyên rằng các vị ni cần sống gần các vị tăng vì vấn đề an toàn và để được tư vấn, và các vị tăng cần thường xuyên thăm viếng và trao đổi với các vị ni.[6]   Sự liên hệ này được dựa trên sự hiểu biết về các mục tiêu của mỗi người hơn là sự bám víu lẫn nhau.  Cả hai phái được khuyên cần phải chánh niệm về tình cảm của mình và luôn kiểm soát chúng.
Tóm lại, bước đầu tiên trong việc chọn lựa những mối tương giao gần gủi thích hợp và thiết lập các mối liên hệ mật thiết là không được kể đến giai cấp, thứ bậc, nòi giống, thân phận và những yếu tố tương tự để làm tiêu chuẩn.  Theo quan niệm của Đức Phật, những yếu tố này không có căn cứ để biện hộ cho sự chọn lựa của họ.

Bước 2:  Hãy cẩn thận với ấn tượng ban đầu về người khác
Trong khi Đức Phật bác bỏ các tiêu chuẩn dựa trên quan niệm cổ hũ để chọn lựa người giao tiếp, Ngài cũng không tán đồng sự lựa chọn dựa trên những ấn tượng ban đầu và tình cảm ban sơ.   Thí dụ, một số người có thể rất khéo léo trong việc tỏ ra họ là người hoàn toàn thích hợp cho một mối liên hệ hoàn hảo.  Nhưng chúng ta cần kiềm chế việc vội vàng kết luận rằng sự tự phác họa đó của họ là phản ánh chân thực về bản chất thực sự của họ.  Đức Phật đã nói hai câu kệ sau đây để tóm tắt nhận định này:
Không thể biết rõ tha nhân bằng vẻ bề ngoài của họ,
Mà cũng khó tin tưởng họ sau ấn tượng ban đầu.
Đúng vậy, kẻ vô đạo đức có thể rong chơi khắp nơi
Trong bộ áo của người đạo đức.
Có người điểm trang thói xấu của mình
Bằng hành động thanh cao giả dối
Giống như đôi bông tai bằng đồng, bằng đất
Được tô vàng sáng chói.[7]
Thêm nữa, vẻ bề ngoài của ai đó cũng không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để dựng nên một chân dung thực sự của họ.  Để nói đến vẻ bề ngoài, Đức Phật dùng thuật ngữ vannarupa, có cả hai nghĩa là “vẻ bề ngoài”, và “hành vi”.  Kể cả vẻ bề ngoài đứng đắn và hành động có văn hóa cũng không đủ để đánh giá một con người.
Ngoài ra, sự quen biết ngắn ngủi cũng không thể giúp ta hiểu biết rõ ràng về ai đó.  Đức Phật dùng thuật ngữittaradassana, có nghĩa đen là “thấy ít”, để ám chỉ một cuộc tiếp xúc, gặp gở ngắn ngủi.  Thật vậy, một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi không thể phản ánh hành vi, tư duy thực sự của một người, vì trong một thời gian ngắn, người ta có thể che dấu bản chất thực sự của họ một cách khéo léo.
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng lời khuyên này không có nghĩa rằng những người dễ thương, lịch sự lúc mới quen biết rất đáng nghi ngờ –vì những người bản tính hòa nhã có thể ngay lập tức biểu lộ bản chất của mình như thế.

Bước 3:  Hãy tuân thủ quy trình của việc kết giao, quán sát và đánh giá
Trong khi bác bỏ các tiêu chuẩn không đầy đủ chứng cứ như đã trình bày trên đây, Đức Phật hướng dẫn cho đệ tử của Ngài một quy trình đơn giản để có thể hiểu người khác tốt hơn –và từ đó chọn lựa những người tương hợp để kết thâm giao.  Điều này, ngược lại sẽ đóng góp vào việc thiết lập những mối liên hệ bền chặt và lành mạnh.  Quy trình đơn giản này như sau:

Kết giao với người trong một thời gian.
Quan sát và đánh giá lời nói và hành động của người đó.[8]
Đức Phật đã giải thích quy trình này cho vua Kosala khi đức vua, có thể muốn trêu cợt, đã giới thiệu với Đức Phật một nhóm cận vệ bí mật của ông là các vị chân tu đạo hạnh.  Vua Kosala trước hết chào hỏi những người gián điệp này một cách kính trọng trước Đức Phật.  Rồi sau khi họ đi khuất, nhà vua nói với Đức Phật: “Các vị tu sĩ đó đã chọn con đường tiến bộ tâm linh”.  Đức Phật trả lời rằng sự phán đoán của nhà vua có thể sai vì nhà vua không có đủ chứng cớ hỗ trợ cho nhận xét của mình.
Sau đó Đức Phật giải thích:  “Với mối liên hệ thân thiết, ngài có thể [bắt đầu để] hiểu việc giữ giới luật, sự trong sạch và trí tuệ của người khác.  Tuy nhiên, sự liên hệ đó cần phải trải qua một khoảng thời gian không ngắn ngủi”[9].  Đức Phật nhấn mạnh rằng những sự giao tiếp  ngắn ngủi không đủ để giúp ta biết được người khác.
Với thời gian, con người sẽ tự biểu lộ; và chúng ta cần phải giao tiếp, quán sát hành vi của họ chặt chẻ để hiểu rõ hơn về bản chất thực sự của họ.  Sau đó, chúng ta có thể suy nghĩ, so sánh và đối chiếu với hành vi đã được quán sát.  Để làm rõ hơn quy trình này, Đức Phật dùng thuật ngữ manasikaroti, có nghĩa là “suy nghĩ”, “giữ trong tâm”, và “nghĩ lại” –nói chung, có nghĩa là “sự đánh giá hành động”.
Theo Đức Phật, một yếu tố quan trọng cho bất cứ sự đánh giá đúng đắn nào là trí tuệ.  Từ Pali được dùng trong ý nghĩa này là pannavata, có nghĩa “bởi người sử dụng cái trí, kỹ năng và trí tuệ”.  Sự đánh giá cần phải có một căn bản hợp lý.  Chúng ta có thể so sánh, đối chiếu và giải mã nhiều hình thức khác nhau của hành vi mà chúng ta đã quán sát; điều này cho phép chúng ta có được một bức tranh rõ nét về người mà ta đã biết trong một khoảng thời gian.
Điều quan trọng của sự đánh giá này nằm trong kết luận rằng chúng ta cần phải tìm người có nhân cách hoàn chỉnh để thiết lập mối liên hệ mật thiết.  Như đã nói trong chương trước, Đức Phật dạy rằng tất cả những sự sợ hãi và lo âu phát xuất từ những người chưa đủ trưởng thành, chưa phát triển đầy đủ, chứ không phải từ những người có trí tuệ.[10]  Việc đánh giá đúng hành động của tha nhân sẽ giúp chúng ta tìm ra những người có trí tuệ khiến ta không phải lo âu hay sợ hãi.

Bước 4:  Quan tâm đến sự tương đồng
Mục đích của quy trình kết bạn, quán sát, đánh giá, là để quyết định xem đối tượng có thích hợp để chúng ta thiết lập mối quan hệ.  Vấn đề ở đây là sự tương đồng.  Để duy trì những mối liên hệ lành mạnh, Đức Phật bảo rằng các đối tượng liên quan cần phải tương đồng.
Theo Đức Phật, “tương đồng” không có nghĩa là hai người phải thuộc cùng một giai cấp xã hội, hay nòi giống như đã nói ở trên, Ngài không chấp nhận những quan điểm xã hội này, coi chúng là vô căn cứ, nông cạn.  Theo quan điểm của Đức Phật, tương đồng, tương xứng có nghĩa là hai người có những hành động và cư xử giống nhau.  Tìm ra những điểm tương đồng này là mục đích của cả quy trình kết bạn, quán sát và đánh giá.  Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất quan trọng của sự tương đồng trong mối quan hệ hôn nhân hạnh phúc.

* Bốn khía cạnh của sự tương đồng
Đức Phật dạy rằng hai thành viên có thể phù hợp với nhau, khi họ có bốn điều giống nhau sau đây:
- Cùng có lòng tin vào việc phát triển tâm linh
- Cùng có lòng tôn trọng giới luật
- Cùng có lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo
- Cùng có trình độ hiểu biết tương tự.[11]

Những sự giống nhau này rất quan trọng để có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc đến nỗi chúng ta cần xem xét chúng kỹ lưỡng.

- Cùng có lòng tin vào việc phát triển tâm linh
Để thiết lập và duy trì một mối liên hệ lành mạnh, cả hai đối tác cần phải có niềm tin tương tự về sự phát triển tâm linh (ubho janapatiyo samasaddha).  Điều này không có nghĩa là cả hai cần phải ráo riết theo đuổi con đường tâm linh.  Tuy nhiên, nó ngụ ý rằng nếu một thành viên có sự kính trọng sâu sắc đối với niềm tin và sự thực hành tâm linh, mà người kia hoàn toàn không màng đến chúng, thì hai người này không thể tương đồng.

- Cùng có lòng tôn trọng giới luật
Theo sự quán sát của Đức Phật thì sự tương đồng kế tiếp là cả hai đối tác cần phải có cái nhìn tương tự đối với việc tự kiềm chế, tự kỷ luật (samasila).  Khi một thành viên rất có đạo đức mà người kia không có đạo đức, thì sự không tương xứng của họ trở nên tương phản và sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong mối liên hệ của họ.
Khi có dịp, chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn về những gì mà Đức Phật muốn ám chỉ khi nói về “sự tự kiềm chế” của người cư sĩ.  Nói ngắn gọn là sự tôn trọng đối với việc gìn giữ giới luật như là không sát hại và không trộm cắp là thí dụ của việc tự kiềm chế.  Nếu một thành viên quan tâm và gìn giữ giới luật rất nghiêm chỉnh, thì người phối ngẫu của họ cũng cần phải như thế.  Sự tương đồng này sẽ khiến cho mối liên hệ của họ được dễ chịu và êm thắm.

- Cùng có lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo
Một dấu hiệu khác của sự tương đồng được Đức Phật nhắc đến là lòng hâm mộ các hoạt động nhân đạo.  Nhiều người có bản tánh ích kỷ, trong khi người khác thì có lòng nghĩ đến tha nhân.  Một cuộc hôn nhân trong đó hai người phối ngẫu thuộc về hai bản tánh khác nhau như thế thì đó có thể là một sự phối hợp lầm lẫn, vì sự hành xử và thái độ của họ sẽ không tương đồng.
Theo Đức Phật, các hoạt động nhân đạo hay dana, còn được biết đến như là caga (hành động rộng lượng, nhân từ), là những hành động tự nguyện của người cư sĩ đối với xã hội.  Dana (hạnh bố thí) có ba cách: bố thí tiền bạc, của cải vật chất; giúp bảo vệ sinh mạng; dạy dổ và hỗ trợ tinh thần, hướng dẫn, dìu dắt.  Khi người chồng hay vợ sẵn sàng còn người kia thì miễn cưỡng khi thực hành dana cho ta thấy sự không tương xứng rõ rệt giữa hai người.

- Cùng có trình độ hiểu biết tương tự
“Trí tuệ” trong Phật giáo có rất nhiều nghĩa, bao gồm, tri thức, khả năng, sức mạnh tinh thần, sự trưởng thành về tình cảm, thái độ tiến bộ và khả năng lý luận.  Sự giống nhau trong các lãnh vực này (samapanna) thể hiện sự tương đồng giữa hai thành viên.  Điều này không có nghĩa là cả hai phải có cùng trình độ học vấn, khả năng tư duy, vân vân; nó chỉ có nghĩa là sự khác biệt quá rộng trong những lãnh vực này sẽ khiến họ không tương xứng và sẽ dẫn đến những xung đột trong mối liên hệ của họ.  Đức Phật nhắc nhở các đệ tử tại gia của Ngài cần phải lưu tâm đến yếu tố này khi chọn lựa người phối ngẫu.

Tóm tắt
Đức Phật đã ban cho cộng đồng cư sĩ những lời hướng dẫn rất hữu ích trong việc chọn lựa các mối quan hệ bằng hữu và hôn nhân.  Ngài khẳng định rằng các quan niệm cổ hũ, khuôn sáo về con người không giúp ta trong việc chọn hay xa lánh người khác khi kết thân.  Tương tự, cảm tính và những ấn tượng ban đầu cũng không phải là những tiêu chuẩn đáng tin cậy để phán đoán sự tương xứng của con người.  Thay vào đó, Đức Phật khuyên, hãy kết bạn, quán sát, và phán đoán hành động của tha nhân sẽ giúp ta quyết định xem họ có thích hợp để kết mối thâm giao không.  Nhất là trong việc chọn lựa đối tượng để kết hôn, cần được dựa trên sự tương xứng lẫn nhau.  Cùng có lòng tin vào sự phát triển tâm linh, giới luật và các hoạt động nhân đạo, cũng như một trình độ hiểu biết tương xứng, sẽ xác định được sự tương đồng của hai người phối ngẫu.

 Tỳ kheo Tiến sĩ Basnagoda Rahula
 Diệu Liên Lý Thu Linh Chuyển ngữ
" Lời dạy của Đức Phật về sự thành tựu trong gia đình, nơi công sở, ngoài xã hội " 

* Tăng Chi Bộ Kinh
* Chùa Linh Ẩn,Hàng Châu ,Trung Quốc - nơi tu tập của Tế Điên Hòa Thượng
*Chú thích:
[1] Câu trích từ Samyutta Nikaya I (Tương Ưng Bộ Kinh):  Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila, 173-174
[2] Sutta Nipata (Kinh Tập): Phẩm Uraga: Kinh Khaggavisana
[3] Samyutta Nikaya I (Tương Ưng Bộ Kinh I): Brahmana Samyutta: Kinh Sundanka, 262-263
[4] Anguttara Nikaya I (Tăng Chi Bộ Kinh I): Phẩm Bala
[5] Sutta Nipata (Kinh Tập): Uraga : Kinh Vasala
[6] Tăng Chi Bộ Kinh VIII:  Phẩm Gotami: Kinh Gotami
[7]Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila 173-174
[8] Như trên
[9] Như trên
[10] Tăng Chi Bộ Kinh VIII:  Phẩm Bala, Kinh Bhaya
[11] Anguttara Nikaya IV (Tăng Chi Bộ Kinh IV): Phẩm Punnabhisanda: Kinh Pathama Samajiva