Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024
Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2024
Phất Thủ Liệu Pháp
PHẤT THỦ LIỆU PHÁP
“Phất Thủ Liệu Pháp” hay còn gọi là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay đã được người Việt chúng ta biết đến khá nhiều trong khoảng mấy thập niên qua. Một phương pháp luyện tập rất thích hợp với người lớn tuổi vì giản dị, nhẹ nhàng với chiêu thức tóm tắt gần như còn có một động tác, có thể tập tại nhà, lúc nào tập cũng được nhưng có kết quả rất cao với khá nhiều chứng bệnh, qua sự chứng nghiệm của rất nhiều người.
I - Phương pháp luyện tập
1. Về tư tưởng:
* Phải có hào khí, tức là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, đầy đủ, đều đặn, tư tưởng vững vàng kiên định, không nghe lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở
* Phải lạc quan, không lo sợ vì bệnh tật, phải bình tĩnh tin tưởng sẽ Phòng & Chiến Thắng được bệnh tật mà luyện tập.
2. Phương pháp:
Với khẩu quyết là 3 – 7 ( Trước 3 - Sau 7 và Trên 3 - Dưới 7 )
* Trước 3 - Sau 7 : Tay ra phía trước 3 phần thì ra phía sau bảy phần. có thể gọi là trước không sau có, tay ra phía trước không có lực còn ra phía sau có lực.
* Trên 3 - Dưới 7 : Độ vững chắc của nửa trên cơ thể 3 phần thì phía dưới là 7 phần. hay còn gọi là “ Thiên – Khinh & Địa - Trọng ” phù hợp với qui luật của triết học phương đông. Phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt, nếu thiếu để tâm thực hành thì kết quả sẽ không được như mong đợi
* Lên Không - Xuống Có: Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau khép hờ hoặc xòe ra như cái quạt. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những yêu cầu cơ bản khi tập luyện.
* Chú ý:
- Khi vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng,thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hô Hấp cũng Tự Nhiên (Nhẹ và Đều, không quan trọng phải thở đúng theo nhịp tay. Hãy để đầu óc nhẹ nhàng, thở thoải mái theo nhu cầu, không cần để tâm đến)
- Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra sau mà chỉ dùng sức bình thường. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập ( Theo Lương y Võ Hà )
- Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, chân đứng rộng bằng vai, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẩm câu: " lên có, xuống không " Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống).
- Hậu môn luôn thót lại suốt quá trình tập để bế Dương khí, không cho thoát ra. Nếu không thót hậu môn sẽ có thể bị trĩ hoặc sa trực tràng do khí bị dồn xuống Đan Điền, tăng sức ép vùng chậu hông. Hô Hấp Tự Nhiên sẽ giảm sức ép này. Khi vẫy tay, các khớp xương thỉnh thoảng cong lại rồi duỗi thẳng ra, nhất là khớp cổ
Tuỳ theo lịch sinh hoạt, nên tập ít nhất 1 lần trong ngày. Để chữa bệnh nên tập ngày 2 - 3 lần. Điều quan trọng ở đây là thường xuyên luyện tập mỗi ngày và đúng phương pháp. Không nên tập sau khi ăn no, thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức chịu đựng của cơ thể.
Sau khi tập, Không dùng nước Lạnh hoặc nước Ấm để lau rửa thân thể vì sẽ làm tiêu hao Nguyên Khí và quan trọng nhất là phải nhớ luôn xoa bóp tay chân cho khí huyết được lưu thông điều hòa ( Theo Bs Phạm Xuân Phụng )
3. Các bước tập cụ thể:
- Đứng thẳng người, hai bàn chân mở song song ( hoặc chữ Bát - tốt hơn nhưng người thể trạng yếu khó đứng lâu ) bằng khoảng cách hai vai
- Hai cánh tay buông lỏng duỗi thẳng tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai, các ngón tay duỗi thẳng, lòng bàn tay quay ra sau. Từ thắt lưng trở lên để lỏng.
- Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cổ để lỏng, đầu và miệng bình thường.
- Các đầu ngón chân bám trên mặt đất như đi trên đường trơn, trọng tâm dồn xuống mũi bàn chân, gót chân để hờ trên mặt đất , bắp chân và đùi chân căng thẳng.
- Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Thót hậu môn và nhẩm đếm.
- Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả lại phía trước để tay buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Khoảng cách chỉ 3/7 phần so với phía sau. Hai tay được sử dụng như hai mái chèo bám sâu vào vai, khi chuyển động sẽ kéo theo cơ hoành chuyển động, nâng nên hạ xuống như lá pít tông khi bơm. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.
- Đầu cổ buông lỏng không nghĩ ngợi chỉ tâp trung nhẩm đếm xem tập được bao nhiêu lần. Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút).
4. Thời gian luyện tập:
Trong suốt quá trình luyện tập nhớ là phải thường xuyên, đều đặn từ 1 - 3 buổi mỗi ngày. Sáng thanh tâm tập mạnh, chiều trước khi ăn tập vừa , tối tập nhẹ ( lưu ý tối tập mạnh sẽ dễ mất ngủ, vì máu lưu thông mạnh, kích thích thần kinh hoạt động sẽ khó ngủ. Khi quen lại tạo ra sảng khoái và giấc ngủ sâu hơn ). Thời gian 1 buổi tập khoảng từ 30 phút trở lên, phải đạt tối thiểu 1800 lần/ 30 phút mới đảm bảo quá trình bơm máu.
* Chú ý:
Nếu quá trình luyện tập không tập trung tư tưởng thì khí huyết sẽ loạn xạ và không chú ý đến trên nhẹ dưới nặng là sai và hỏng.
- Giai đoạn đầu là giai đoạn để cơ thể làm quen, không được gắng sức làm tổn thương các đầu ngón chân và khớp vai ( sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). không được nôn nóng vì dục tốc bất đạt, sẽ không thu được kết quả mong muốn. quyết tâm và từ từ tiến lên sẽ được kết quả tốt. vội vàng làm cơ thể không thích nghi kịp sẽ không tốt. Mới đầu tùy theo khả năng từng người, người quen vận động có thể bắt đầu từ 300 lần trong 1 buổi tập. người ít vận động có thể từ 200 hoặc 100 lần cho buổi tập đầu tiên. sau khi đã quen thì tăng dần lên mỗi lần tăng 100 lần/ buổi tập. Người yếu, ít vận động có thể tăng 50 lần/ buổi tập, dần tiến tới 1800 lần và hơn nữa.
- Khi vẫy tay tới 600 lần trở lên thường có trung tiện và hắt hơi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng, hai chân nhức mỏi thì đó là bình thường, đừng ngại. Sớm có trung tiện là tốt. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho phù hợp giữa sinh lý và vũ trụ ( Thiên - Khinh, Địa - Trọng) Trên Nhẹ, Dưới Nặng, đấy là qui luật sinh hợp với vũ trụ.
- Bệnh ở gan là do khí huyết lưu thông kém, nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, ảnh hưởng đến cả Mật và Tì Vị. Luyện Vẫy tay có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt.
- Về bệnh ở mắt, luyện tập là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ và các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí cả đục thủy tinh thể. Trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến được các bộ phận của mắt sinh ra các bệnh.
5. Những phản ứng:
Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được:
1) Đau buốt 2) Tê dại 3) Lạnh 4) Nóng 5) Đầy hơi 6) Sưng 7) Ngứa
8)Ứa nước dãi 9) Ra mồ hôi 10) Cảm giác như kiến bò 11) Giật gân, giật thịt 12) Đầu khớp xương có tiếng kêu lục cụ 13) Cảm giác máu chảy dồn dập 14) Lông tóc dựng đứng 15) Âm nang to lên 16) Lưng đau 17) Máy mắt, mi giật 18) Đầu nặng 19) Hơi thở nhiều, thở dốc 20) Nấc 21) Trung tiện 22) Gót chân nhức như mưng mủ 23) Cầu trắng dưới lưỡi 24) Đau mỏi toàn thân 25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân) 26) Sắc mặt biến dị 27) Huyết áp biến đổi 28) Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen 29) Tiểu tiện nhiều 30) Nôn, mửa, ho 31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra 32) Trên đỉnh đầu mọc mụt 33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân 34) Chảy máu cam.
Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lúc lưu thông bình thường không thải nổi. Nhờ luyện tập, khí huyết lưu thông mới đẩy cặn bã ra ngoài và sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt.
6. Luyện vẫy tay đạt được 4 tiêu chuẩn sau:
- Nội trung tố : Tức là nâng cao can khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầụ
- Tứ trường tố : Tức là tứ chi phải phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc khi tập. Tứ trường tố song song với nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dần đi xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
- Ngũ tâm phát : nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây họat động mạnh hơn mức bình thường:
* Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
* Lão cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
* Dũng tuyền: hai huyệt của hai gan bàn chân.
Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt . Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
- Lục phủ minh : Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng
7. Một số điều cần chú ý khi luyện tập :
1) Phải có quyết tâm đều đặn tập trung vào sự luyện tập, không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện tập, khó có hiệu quả. Số lần vẫy tay trong 1 buổi tập không giới hạn, nhưng các buổi tập phải đều, không nên lúc nhiều lúc ít. Có thể tập nhiều hơn nhưng không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần 1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân. Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng . Có bệnh nhân lên số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong mỗi buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp.
2) Tốc độ vẫy tay nên chậm. Bình thường vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh , vòng rộng và dùng sức nhiều hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì không đạt tới mục đích. Vì luyện tập có tác dụng làm cho mạch máu lưu thông.
3) Vẫy tay là môn thể dục mềm dẻo, phòng trống bệnh tật. Đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai, phải làm sao cho cho bả vai, lưng, ngực chuyển động làm cho cơ hoành lên xuống mới có tác dụng
- Bệnh phong thấp thì nên dùng sức ở mức nặng một chút. Bệnh huyết áp thì dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm.
* Tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể: nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng và tốt nhất.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (tức bệnh tật).
4) Nhẩm đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tĩnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân Âm được bồi dưỡng.
5) Hoàn cảnh khi luyện tập : Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành, không có gió lùa và yên tĩnh vẫn tốt hơn.
6) Trước và sau khi tập: Trước khi tập đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tĩnh nên cần chú ý đến điểm nàỵ
7) Luyện tập đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước dãi ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập đúng phép. Sau khi tập đại đa số thấy có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.
* Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây:
- Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư)
- Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực)
- Khi tay trả lại phía trước theo quán tính không dùng sức (nhẹ)
- Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng, mạnh)
- Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay
- Tập ngày 2 - 3 buổi kiên quyết tự phòng & chữa bệnh cho mình
8)Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không hết quả.
9) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn hữu không tới 1%.
10) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông.
* Tóm lại cần lưu tâm vào những điều sau:
- Khi tập luôn luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất.
- Thót hoặc co hậu môn để giữ thế "Thượng - Hư, Hạ - Thực"
- Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần ( 30 – 35 phút ) mới có hiệu quả. Nếu có Bệnh cần chữa thì nên tập 2 đến 3 lần / ngày
- Khi tập luôn tập trung nhẩm đếm để không bị phân tâm, nghĩ ngợi lung tung
- Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên.
- Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ tăng cường thể lực và đẩy lùi bệnh tật.
- Luyện tập vẫy tay không chỉ chữa khỏi bệnh mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu
* Chống chỉ định: Những người đang bị ngoại thương không được phép tập, vì máu lưu thông mạnh làm vết thương há miêng, khó lành.
( Theo Lương y Trần Văn Bình )
II - Nguồn gốc của Phất Thủ Liệu Pháp
Một số tài liệu đặt tên cho phương pháp vẫy tay này là “ Đạt Ma Dịch Cân Kinh ” nhưng trên thực tế chưa tìm thấy bằng chứng nào để xác thực cả. “ Phất Thủ Liệu Pháp ” có nguồn gốc xuất xứ rất mơ hồ, không rõ từ đâu, do ai sáng tác và cũng không liên quan đến tài liệu “ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh” có gốc gác từ Trung Quốc. Rất có thể đây là một sáng tạo của người Việt dựa trên nền tảng y lý và võ đạo Đông Phương. Có thể gọi “ Phất Thủ Liệu Pháp ” là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay. Dù không liên quan đến “ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh ” nhưng tác dụng chữa bệnh đã được thực chứng và cơ sở lý luận Đông Y của nó là không thể phủ nhận. Do vậy, việc luyện tập cũng như truyền bá phương pháp này là thực sự cần thiết và hữu ích cho cộng đồng.
Theo tài liệu của Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì:
" Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung thư gan, lao, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại học Y khoa Thượng Hải, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu Lâm ở Hương Cảng, Đài Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975."
1. Cơ sở lý luận Đông Y
Theo quan điểm đông y thì tình trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với KHÍ - HUYẾT của cơ thể. Khí và Huyết không thể tách ra từng mặt để nghiên cứu như huyết nhiều hay ít, loãng hay đặc, sắc tố thế nào… mà xem xét cả quá trình tuần hoàn của huyết. không xem xét ở một bầu máu không sức sống, mà khi nêu vấn đề Khí Huyết là xem xét phân tích trạng thái vận động và cả quá trình sinh lý cùng với các mối quan hệ khác.
Về khí cũng vậy, thông thường ta hiểu là khi thở không khí vào phổi, ăn thức ăn vào bụng, ruột hấp thụ chất dinh dưỡng ấy và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân thể được ôxy hóa sinh ra nhiệt năng, đồng thời thu hồi các chất cặn bã từ các tế bào cơ thể bài tiết ra ngoài. Nhưng trong đông y, khí bao hàm rất rộng không chỉ là không khí mà còn là hào khí, thiên vị khí (Prana)…
Tuần hoàn tốt phát huy tác dụng của máu, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sức khỏe đương nhiên sẽ được cải thiện. Cho nên trong lý thuyết Khí - Huyết không thể đơn độc chỉ có Huyết mà không có Khí hay ngược lại.
Đông y cho rằng mâu thuẫn chủ yếu trong cơ thể là ÂM - DƯƠNG . Và trong KHÍ - HUYẾT thì Âm là Huyết - Dương là Khí.
Luyện PTLP làm cho khí huyết hoạt động điều hòa có tác dụng phòng và chữa bệnh. Lấy thí dụ trong 1 đơn vị quân đội cùng sinh hoạt như nhau, sau 1 bữa ăn lại có người bị đau bụng đi kiết lỵ, đi tả, nhưng có những người chẳng bị làm sao. Đấy là những người có thể trạng mạnh khỏe, Khí Huyết lưu thông tốt nên giúp cơ thể thải độc tốt, vì thế họ không mắc bệnh.
Tập PTLP có thể chữa được cả bệnh nan y như Ung thư. Người xưa quan niệm u nhọt chia làm 2 loại: Âm thư và Dương thư , có câu : “ Dương thư dễ lành, Âm thư khó trị”. Dương thư là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi vỡ và có ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư là cái nhọt mọc bên trong cơ thể không có đầu to dần lan rộng, có khi rắn như đá gọi thạch thư. Nguyên nhân đều do sự kết tụ của khí huyết làm trở ngại và tắc kinh lạc, do vậy các phế vật trong cơ thể cần thải mà không thải ra được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch, gan, các chất khô... không đủ nhiệt năng nên công năng của máu giảm sút không thể thải được những chất không cần thiết trong cơ thể ra ngoài
Luyện vẫy tay đúng phép, miệng , dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, các sự chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ nên sẽ phòng chống được tật bệnh. Vẫy tay thực chất là bơm máu lưu thông trong cơ thể. Toàn bộ cơ thể được sử dụng như một chiếc bơm và lại bơm khí cho chính cơ thể đó. Cái thông minh của người xưa là sử dụng cơ hoành như 1 lá pít tông. Khi vẫy tay liên tục cơ hoành lên xuống dễ dàng tăng thêm khí trong dạ dày , thận và ruột gây tác dụng hưng phấn, áp lực khí trong máu tăng làm máu lưu thông mạnh hơn giúp cho viêc tống cựu nghinh tân được tốt, khí huyết thông thoáng cân bằng.
Nguyên nhân ung thư thì hiện nay trên thế giới vẫn còn bàn cãi, nhưng lý luận về Khí - Huyết của đông y đã có lập luận rõ ràng. Đông y xem cơ thể con người là một thể vận động và thống nhất, trong vận động này lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau tức là tương hỗ, tương sinh , ức chế lẫn nhau là tương khắc. Bệnh tật hầu hết là do sự trì trệ khí huyết và nó lại làm hao tổn thêm khí huyết. Khí - Huyết có tác động đến tất cả lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh ra bệnh ung thư cũng là do Khí - Huyết lưu thông không chu đáo mà ra.
Việc luyện tập làm cho khí huyết lưu thông là để Phòng & Tự chữa bệnh - đây là cơ sở để xây dựng lòng tin vững chắc cho người bệnh đối với việc tự chữa bệnh, mà từ đó tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập. PTLP chính là phương pháp thay đổi tăng cường lưu thông khí huyết mà làm thay đổi trạng thái sức khỏe cơ thể. Vì thay đổi tăng cường khí huyết nên PTLP có thể Phòng & Chữa được cả bệnh ung thư cũng như rất nhiều bệnh khác nhau:
Trĩ nội, ngoại, lòi dom.
Các bệnh về đường tiêu hóa ruột, dạ dày, gan…
Suy nhược thần kinh.
Các bệnh về tim
Bán thân bất toại, trúng gió lệch mắt, méo mồm
Hen xuyễn
Các bệnh về Mắt
….
Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật là do KHÍ - HUYẾT ( ÂM - DƯƠNG ) MẤT CÂN BẰNG mà sinh ra, Phất Thủ Liệu Pháp có thể giải quyết được vấn đề này nên đa số các bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa khỏi, đăc biệt ngay cả bệnh ung thư cũng có thể khỏi.
2. Tác dụng
Tập Phất Thủ Liệu Pháp tác động đến các huyệt đạo:
- Bách hội
- Đại chùy
- Lao cung
- Trường cường
- Hội âm
- Dũng Tuyền
- Ấn bạch
Cũng như nhâm đốc mạch và vận chuyển hoành cách mô xoa bóp các cơ quan trong tạng, phủ.
Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500 -700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Đây là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng Phất Thủ Liệu Pháp.
PTLP đặc sắc ở chỗ phất tay về sau mạnh và cao. Thủ thuật này làm tuần hoàn máu ở não gia tăng. Nó hiệu quả hơn so với tư thế Yoga trồng chuối ngược vì thế này dựa vào hấp lực của trái đất - thụ động đưa máu đỏ đến não nhưng lại gây trở ngại cho việc đưa máu đen từ não về tim. PTLP là biện pháp đưa máu đỏ lên não tích cực. Khi phất tay ra sau mạnh và cao, các cơ vùng cổ gáy, bờ vai ép mạnh vào các mạch máu nơi này, tống máu đỏ lên, đưa máu đen xuống cũng nhanh và mạnh theo. Tuần hoàn máu đưa chất dinh dưỡng lên não và đưa chất thải sinh học xuống dưới nhanh hơn, mạnh hơn. Do đó sinh lý não bộ phải tốt hơn lên. Não bộ chỉ huy mọi hoạt động của tất cả cơ quan. Lãnh đạo khỏe minh mẫn thì cấp dưới làm việc tốt hơn là đương nhiên.
Đối với y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ đồng một thể. Con người là tiểu vũ trụ. Trời đất thuộc đại vũ trụ. Mối quan hệ giữa con người và trời đất thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thìên căn, hấp tiếp địa khí". Hàng ngàn năm sau, hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng đã nghiên cứu, thí nghiệm và kết luận "vũ trụ lực nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót"*. Những động tác của PTLP tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này cho việc chữa bệnh và tăng cường nội khí. Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay đã kích hoạt huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu và Đại Chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh Dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh Dương và Mạch Đốc.
Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường Cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng Tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.
Theo học thuyết Kinh Lạc, Dương phải thường giáng và Âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (Âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực Dương sinh Âm và Cực Âm sinh Dương. Việc nhập xuất, thăng giáng ở các huyệt vị và những đường kinh này những người luyện khí công có khí cảm tốt đều có thể thể nghiệm được. Đây có lẽ chính là con đường mà người xưa đã khám phá và từ đó xây dựng nên học thuyết Kinh Lạc. Trường Cường nằm trên mạch Đốc, là nơi phát xuất chơn Hỏa, tương ứng với luồng Hỏa xà Kundalini trong hệ thống khí công Ấn độ. Hội Âm nằm trên mạch Nhâm, là điểm giao hội của các đường kinh âm và hai mạch Nhâm, Xung, là điểm thu âm khí quan trọng nhất trong khí công. Do đó mặc dù không vận khí nhưng PTLP đã tác động rất tích cực vào hai mạch Nhâm, Đốc. Y học truyền thống cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các đường kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các đường kinh Âm. Tất cả bệnh biến đều có biểu hiện trên hai đường kinh này. Nếu Nhâm, Đốc thông, trăm mạch đều thông. Vì vậy việc khai thông Nhâm, Đốc có ý nghĩa quan trọng cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh.
PTLP có tác dụng cân bằng Âm - Dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí Dương thường thừa mà khí Âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). PTLP có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường Kinh Âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc Thượng Hư - Hạ Thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) - biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống Hạ Tiêu. Điều này khí công gọi là khí trầm Đan Điền, đạo gia gọi là Qui Căn. Đối với y học cổ truyền, đó là thuận khí, giáng hư Hỏa hoặc dẫn Hỏa quy nguyên. PTLP cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.
Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thìện vốn có của hệ thần kinh trung ương.
( Theo tài liệu “ Phất Thủ Liệu Pháp ” của Lương y Võ Hà )
3. Phản ứng phụ
PTLP có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.
Do không rơi vào Nhập Tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. PTLP tác động kích thích đồng thời các huyệt Bách Hội, Hội Âm và Trường Cường. Do đó, Bách Hội và Hội Âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ Trường Cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa Âm và Dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.
Do tuân thủ nguyên tắc Thượng - Hư, Hạ - Thực và tâm ý quán chiếu Đan Điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma. Trong cơ thể một người bình thường, hai mạch Nhâm, Đốc thường tách rời nhau. Ở người luyện khí công, vòm họng trên và hậu môn có khả năng trở thành những chiếc cầu nối hai mạch này lại nên được gọi là Thượng Thước Kiều và Hạ Thước Kiều. Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn vừa là một yêu cầu luyện công để tăng nội lực, vừa là một biện pháp an toàn do những động tác này nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra thế bình thông nhau giữa hai bể khí Âm và Dương. Sự tương thông này giúp nội khí luân lưu tuần hoàn thành vòng Tiểu Châu Thiên trong thân người, điều hòa giữa Âm và Dương và thông qua hai đại mạch này tăng cường và điều hòa sinh lực giữa ngủ tạng, lục phủ.
( Theo tài liệu “ Phất Thủ Liệu Pháp ” của Lương y Võ Hà )
Nguồn Tổng Hợp
* Ghi chú: Tài liệu PTLP này được tổng hợp từ nhiều nguồn trong đó chính yếu là từ tài liệu có tên “ Dịch Cân Kinh “ được cụ lương y Trần Văn Bình phổ biến và đưa cho Phạm Viết Hồng Lam, 43 tuổi (Giảng viên trường Cao đẳng Sư Phạm Nhạc Họa) để tự chữa khỏi bệnh. Hồng Lam bị ung thư vòm họng giai đoạn II, lâm vào một tình thế bế tắc. Anh đã được cụ Bình giới thiệu tập tài liệu luyện tập này, và anh đã luyện tập để tự chữa bệnh. Điều thần diệu đã đến, sau 3 tháng luyện tập, bệnh của anh đã khỏi hẳn và sức khỏe ngày một tăng không ngờ ( Tài liệu được trao ngày 7/2/1989 anh tập đến tháng 5/1989 thì hết bệnh ). Sau khi hết bệnh, Hồng Lam kể lại quá trình luyện tập chữa bệnh của mình cho bạn bè thân thuộc nghe, đồng thời anh cũng giới thiệu tập tài liệu này trên báo Hà Nội Mới để chứng minh cho điều mình đã kể cũng như để cho đồng bào cả nước cùng biết.
Bs Hoàng Khánh Toàn, chủ nhiệm khoa Y học cổ truyền, Bệnh viện 108 cho rằng phương pháp này có hiệu quả nhất định nhưng tài liệu thì chưa đáng tin cậy.
Phương pháp này cũng đã được Lưu Dũng chỉnh lý và sử dụng chữa trị hiệu quả một số bệnh lý như : cao huyết áp, hen suyễn, suy nhược thần kinh, đau nhức xương khớp... ở Trùng Khánh, Trung Quốc.
( Theo vnexpress )
Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2024
Công đức thực sự
CÔNG ĐỨC THỰC SỰ
Tôi không thấy có mấy ai đến chùa để học cách từ bỏ những điều xấu sai, bất thiện. Họ cứ chúi mũi vào việc đi ‘tạo công đức’, nhưng họ chẳng biết họ đang tốn công sức vào việc gì. Điều đó giống như người đang cố nhuộm màu cho một tấm vải dơ bẩn, chưa giặt sạch.
Kinh có ghi: “Tránh Làm Tất Cả Những Điều Xấu Ác ”
Đó là lời dạy của các vị Phật. Đây là cốt lõi của đạo Phật.
Phòng trừ, tránh bỏ tất cả những điều xấu ác, từ điều nhỏ đến điều lớn, từ thân, miệng, ý… đây chính là điều các vị Phật dạy.
..
Việc đi chùa, đi cúng dường để tạo công đức giống như những phần vỏ cây bên ngoài. Việc quay vào lại mình để tu sửa điều bất thiện ích kỷ và tu dưỡng điều thiện lành rộng lượng ở trong tâm mới là cốt lõi của đạo Phật. Đó mới là công đức thực sự.
Thầy Ajahn Chah
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024
Hạnh phúc .. quá !
HẠNH PHÚC .. QUÁ !
Có anh nhà giầu nổi tiếng ở một vùng nọ. Anh ta giầu đến nỗi .. trở nên chán nản, thất vọng với sự giầu có của bản thân. Thế rồi anh ta quyết tâm đi tìm xem hạnh phúc thực sự là như thế nào bởi vì anh ta vẫn cảm thấy khổ sở. Anh ta đã đi khắp nơi để tìm các bậc thầy về trí huệ - hết vị này tới vị khác mà toàn vô dụng. Họ nói nhiều, nhưng không ai có thể chỉ cho anh ta hạnh phúc. Và anh ta thì khăng khăng nói với họ :
- " hãy chỉ cho tôi hạnh phúc, thế thì tôi sẽ tin… ông không thể lừa tôi bằng việc nói được. Chỉ cho tôi hạnh phúc đi - nó ở đâu. Đích xác nếu tôi thấy nó, chỉ thế thì tôi mới có thể trở thành đệ tử của ông "
Bây giờ hiếm khi tìm ra vị thầy có thể chỉ cho bạn được. Có hàng nghìn và hàng nghìn người có thể nói về hạnh phúc, và nếu bạn nhìn mặt họ bạn sẽ thấy rằng họ khổ nhiều hơn bạn.
Ngày nọ, Anh ta tới một ngôi làng hẻo lánh và mọi người ở đây bảo với anh ta :
" Có đấy, chúng tôi có một nhà huyền môn Sufi. Ông ấy có thể giúp được. Ông ấy có chút ít lập dị, cần phải lưu ý điều đó vì không ai biết ông ấy sẽ làm những gì. Nhưng ông ấy có thể giúp được anh "
Nghe vậy, anh nhà giầu vội vã tìm đến ngôi lều của nhà huyền môn Sufi. Ông ấy không có ở đó, ông ấy vừa đi vào trong rừng, cho nên anh ta lại đi vào rừng để tìm ông ấy. Anh ta trông thấy nhà huyền môn đang ngồi thiền dưới một cái cây khá to, với một dáng vẻ thật an bình và viên mãn. Ngay cả mọi thứ quanh ông ấy cũng tĩnh lặng - cây cối, chim chóc. Không khí rất thanh bình và màn đêm thì đang dần dần buông xuống.
Người giầu quì xuống dưới chân nhà huyền môn và nói :
- " Thưa ngài, tôi muốn hạnh phúc. Tôi có mọi thứ - chỉ trừ mỗi hạnh phúc, xin ngày hãy chỉ cho tôi "
Nhà huyền môn Sufi từ từ mở mắt rồi cất lời :
" Ta sẽ chỉ cho anh hạnh phúc, anh hãy chỉ cho ta giầu có của anh "
Điều đó rất hợp lý, nếu bạn đề nghị ông ấy chỉ cho hạnh phúc, bạn phải chỉ cho ông ấy giầu có của bạn chứ. Anh ta có đầy châu báu trong cái túi trên lưng ngựa vì anh ta đã dự phòng cho điều đó. Anh ta nghĩ, " Nếu có ai đó hạnh phúc, người đó sẽ nói với một cái giá chứ. Và chẳng có gì bạn có thể có trong đời mà không phải trả giá cho nó “.
Cho nên anh ta đã mang theo một túi đầy châu báu, chúng đáng giá hàng triệu ru pi, và chúng là tất cả gia sản mà anh ta đã bán.
Người giầu chìa cái túi ra và nói :
- " Ông trông đây "
Trong chớp mắt, nhà huyền môn vồ lấy chiếc túi trong tay anh ta và chạy mất. Người giầu không thể tin ngay vào điều vừa xảy ra là sự thực. Khi hoàn hồn, anh ta vội chạy đuổi theo và vừa chạy, vừa la to :
- " Ối cướp, tôi bị cướp ! "
Tất nhiên, nhà huyền môn quá thông thuộc đường đi lối lại ở đây và ông ấy có thể chạy nhanh vì ông ấy là một fakir mạnh khoẻ. Người giầu trong đời chưa bao giờ phải đuổi theo ai cả, cho nên anh ta rất vất vả… vừa chạy, vừa khóc lóc, kêu gào, la hét, đau khổ. Và rồi dân làng tụ tập lại…, họ nói :
" Chúng tôi đã bảo anh từ trước rồi, ‘Đừng đi, ông ấy lập dị. Chả ai biết ông ấy sẽ làm gì ‘ “.
Đó thực sự là bất hạnh cho anh nhà giầu, của cải dành dụm cả đời của anh ta bị mất – và hiện không ai có thể giúp gì được cả.
Chạy vòng quanh làng, nhà huyền môn quay lại chỗ cái cây mà ông ta vừa ngồi. Con ngựa của anh nhà giầu vẫn đứng ở đó, ông ấy để cái túi gần con ngựa, rồi lại ngồi xuống gốc cây, nhắm mắt và trở nên im lặng. Người giầu chạy tới, thở hổn hển vã mồ hôi, nước mắt dàn dụa – cuộc sống của anh ta đang lâm nguy. Thế rồi anh ta đột nhiên thấy cái túi ở chỗ con ngựa - anh ta vồ lấy nó, ôm chặt vào ngực và bắt đầu nhảy múa,…
Nhà huyền môn mở mắt ra rồi nói :
" Trông đấy! Ta chẳng chỉ cho anh hạnh phúc là gì đó sao? anh đã thấy hạnh phúc chưa ? "
- " Hạnh phúc, hạnh phúc ... rồi...tôi thấy rồi, ôi ! .. tôi hạnh phúc quá ! "
Anh nhà giầu lắp bắp trả lời.
...
Bạn phải biết khổ, chỉ thế thì bạn mới biết hạnh phúc là gì. Bạn cần bối cảnh. Mọi kinh nghiệm đều là kinh nghiệm trên bối cảnh. Vị Phật phải tới thế giới để cảm thấy rằng mình là vị Phật. Bạn phải tới thế giới và khổ để biết bạn là ai. Không có nó, không có khả năng nào. Bạn ở trong cùng trạng thái mà người giầu này đã ở - chạy theo nhà huyền môn, mọi thứ bị cướp đi, kêu khóc. Tôi có thể thấy - mọi thứ bị cướp, bạn chạy trong ngôi làng thế giới này. Đường thì không biết, nhưng bạn bị cướp. Bạn bất hạnh tới cùng cực, khổ sở. Chạy, chạy, chạy... một hôm bạn sẽ quay lại cái cây, bạn sẽ thấy lại cái túi. Bạn sẽ nhảy múa, bạn sẽ cực lạc. Bạn sẽ nói, " Bây giờ tôi đã biết hạnh phúc thực sự là gì "
Theo thầy Osho
Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024
Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024
Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024
Có chọn ...
CÓ CHỌN ...
Có câu nói, bạn tiếp xúc nhiều với điều gì. Bạn sẽ trở nên giống điều đó. Bạn làm điều gì đó hàng ngày. Điều đó lâu dần sẽ trở thành bạn.
Biết vậy nên học cách chọn lọc.
Cuộc đời mà, có mấy đâu. Để học hỏi, có dùng cả đời cũng không hết. Nên đừng lãng phí những phút giây của mình với những điều không đáng.
Đừng cố đi theo những người thô lỗ, những người lắt léo, bất thiện chỉ vì tiền hay vì bất cứ điều gì.
Đi với những con người đó, trước sau gì đều không có hậu.
Bạn sinh ra ở đâu, bạn không được chọn. Nhưng xung quanh bạn là ai. Bạn được chọn.
Có chọn, hãy chọn điều lành, bạn lành. Đừng chọn điều xấu, bạn xấu.
Có chọn, hãy chọn chân thành. Đừng chọn lợi ích.
Có như vậy, bạn mới đi được xa và lâu dài
Phật Đạo Vô Thượng