Thứ Năm, 20 tháng 10, 2016
Thứ Ba, 18 tháng 10, 2016
Khía cạnh thực tế của đạo Phật
" Nếu có kiếp sau thì người hành thiện chắc chắn sẽ được an lạc. Nếu không có kiếp sau thì ngừơi hành thiện vẫn được an lạc ngay trong kiếp hiện tại nầy "
- Lời Đức Phật -
KHÍA CẠNH THỰC TẾ
CỦA ĐẠO PHẬT
Nhiều người khi
tìm hiểu Phật giáo đã đặt ra những câu hỏi xa vời như: Niết-bàn là gì? Làm sao
biết có kiếp sau? Vũ trụ do đâu mà hiện hữu? Con người từ đâu đến và sau khi
chết sẽ đi về đâu? v.v. nhưng ít khi họ nghĩ đến những vấn đề thiết thực như:
Đạo Phật có đáp ứng được những nguyện vọng của chúng ta trong hiện tại không?
Đối với Đạo Phật có chủ trương xây dựng một xã hội lành mạnh hay không?
Thực tế hơn, câu
hỏi mà chúng ta nên đặt ra nhất là: Nhân loại đang căng thẳng bất an vì tranh
giành ảnh hưởng kinh tế, chính trị, quyền lợi v.v. Vậy Đạo Phật có giải pháp
nào giúp con người thoát khỏi những lo âu sợ hãi ấy không?
Không phải vấn đề
Niết-bàn hay kiếp sau... hoàn toàn không nên đặt ra để tìm hiểu, nhưng có những
vấn đề thiết thực và cấp bách hơn cần được giải quyết ngay trong chính đời sống
hằng ngày của chúng ta.
Một hôm có người
đến nói với Đức Phật rằng ông ta không tin có kiếp sau. Đức Phật dạy rằng:
"Nếu có kiếp sau thì người hành thiện chắc chắn sẽ được an lạc. Nếu không
có kiếp sau thì ngừơi hành thiện vẫn được an lạc ngay trong kiếp hiện tại nầy".
Vì vậy trong một
cuốn sách viết về Phật giáo, Đại sư Ānanda nhấn mạnh: "Bí quyết của một
đời sống thành công và hạnh phúc là luôn luôn làm những việc cần làm trong hiện
tại, không thắc mắc tương lai, không hối tiếc quá khứ".
Nguyện vọng của
con người là làm sao để sống một đời sống hạnh phúc, mà bí quyết để tạo nên
hạnh phúc phải được thực hiện ngay trong hiện tại.
Đức Phật dạy rằng
hạnh phúc là vấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho
tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ. Chính cách sống trong giây
phút hiện tại quyết định phẩm chất hạnh phúc của mỗi người. Ngài dạy trong kinh
Samyutta Nikāya rằng: "Không nên phiền muộn hối tiếc những gì đã qua,
không nên tò mò tìm hiểu những gì chưa đến. Hãy sống trong hiện tại" (Atītaṁ nānasocanti nappajappanti anāgataṁ, paccuppannena
yāpenti).
Nhiều lần Đức
Phật từ chối trả lời những vấn đề về nguồn gốc vũ trụ và con người. Ngài dạy
rằng, một người đi rừng bị trúng tên độc, từ chối không cho thầy thuốc nhổ tên
để băng bó, cứu chữa, ông ta khư khư đòi trước tiên phải biết cho bằng được kẻ
nào bắn tên, thân thế y ra sao, anh ta sinh trưởng ở đâu v.v. Nhưng đợi cho đến
khi được trả lời thỏa mãn thì anh ta đã mất mạng từ lâu rồi, làm sao cứu chữa
được.
Đó là chúng ta
chưa nói, nếu Niết-bàn là tuyệt đối, siêu việt thì làm sao dùng những lời lẽ,
những ngôn từ tương đối, thường tục để diễn đạt được. Nhiều vị luận sư đã viết
về Niết-bàn, Phật tánh, bản thể chân như, tánh không v.v. đã cho chúng ta thấy
càng suy luận, bàn cãi vấn đề càng rắc rối hơn trong rừng ý niệm và ngôn ngữ
ước định. Những bộ luận ấy có thể rất hay về lý nhưng chỉ để thỏa mãn kiến giải
triết học chứ không giải quyết được những vấn đề thiết thực hiện tại. Có khi
còn làm cho vấn đề lệch lạc, đưa đến những hiểu lầm tai hại.
Vì vậy chúng ta không
nên đặt những vấn đề quá cao siêu, huyền bí mang tính triết học hay siêu hình,
vượt khỏi trình độ hiểu biết của mình, hay vượt khỏi thực tế của đời sống, mà
thực ra đó chỉ là những giả định của lý trí giàu tưởng tượng không thực.
Mục đích của đạo
Phật không phải nhằm thỏa mãn trí tưởng tượng của con người, mà chỉ nhằm
"chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" cho nhân loại. Và người muốn
được chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc không thể chỉ cả tin, chấp nhận hay tìm
hiểu suông giáo lý của Đức Phật mà phải tư duy chín chắn rồi thể nghiệm xem có
đúng là con đường chuyển hóa thật sự đem lại giác ngộ giải thoát, an lạc hạnh
phúc hay không?
Đức Phật dạy
nguyên nhân của mọi đau khổ là vô minh và ái dục, hay nói một cách khác chính
tham lam, sân hận, si mê là nguồn gốc của mọi tranh chấp, oan trái để rồi đem
lại những lo âu, sầu muộn, bất mãn. Đó chính là những yếu tố làm cho đời sống
thoái hóa và khổ đau.
" Ngày nọ,
có một vị tỷ kheo đang thực hành đời sống xuất gia phạm hạnh trong rừng bỗng tự
thốt lên lời hoan hỉ rằng: "Hạnh phúc thay! Hạnh phúc thay!" Vô ý nói
lớn quá làm cho những người bạn cùng tu nghe được và đem thuật lại với Đức
Phật. Đức Thế Tôn muốn nhân cơ hội này thuyết pháp cho các vị tỷ kheo, nên cho
gọi vị ấy đến hỏi nguyên nhân. Vị ấy trả lời rằng: Quả thật con có thốt ra
những lời như thế, vì trước kia con là một vị vua có giang sơn xã tắc, có cung
điện nguy nga, ngọc ngà châu báu, cung phi mỹ nữ, binh hùng tướng mạnh... nhưng
không ngày nào con cảm thấy yên tâm, con luôn sợ ngoại xâm, nội loạn, âm mưu
thoán đoạt v.v. nên luôn phải đề phòng thù trong giặc ngoài, không bao giờ thật
sự được yên bình thoải mái. Trái lại, từ khi xuất gia, tuy chỉ có ba mảnh y,
một bình bát nhưng không có điều gì làm con phải lo âu sợ hãi, tâm con luôn
được an vui tự tại, do vậy con đã thốt lên những lời cảm thán ấy. Nhân đó Đức
Phật dạy các vị tỷ kheo rằng nếu các thầy sống đúng theo đời sống phạm hạnh,
không chấp thủ điều gì, không bị dục vọng chi phối thì đời sống sẽ được an lạc
hạnh phúc ".
Kinh Sāmannaphala
trong Dīgha Nikāya thuật lại rằng:
" Một hôm
Đức Thế Tôn ngự tại Ràjàgaha, vua Ajātasattu đến hỏi Đức Phật về những lợi ích
hiện tại của đời sống tu hành. Đức Phật dẫn chứng những quả báu thiết thực từ
vật chất đến tinh thần và dạy rằng các vị sa-môn đã xuất gia chơn chánh, nếu
biết sống trong Giới, Định, Tuệ, diệt trừ tham, sân, si thì đời sống tự tại,
giải thoát sẽ đến với họ ngay trong kiếp hiện tại chứ không cần tìm ở đâu xa
".
Mặc dù mục đích tối
hậu của đạo Phật là chứng ngộ Niết-bàn, nhưng như chúng ta đã thấy mục đích
thực tế nhất vẫn là "thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc". Bởi vì nếu
ngay bây giờ chúng ta được an vui tự tại thì kiếp sống vị lai dĩ nhiên cũng
được an vui tự tại. Nếu hiện tại chúng ta được thanh tịnh, không còn phiền não
khổ đau thì đó chính là cứu cánh Niết-bàn vậy.
Chúng ta đồng ý
với một số người cho rằng, điều kiện của một đời sống hạnh phúc là có sức khỏe,
có tiền tài và có địa vị trong xã hội. Nhưng đời sống hạnh phúc thực ra không
hoàn toàn tùy thuộc vào những điều kiện vật chất như thế, đó có thể là điều
kiện tốt chứ không phải là cần và đủ. Nếu một người khỏe mạnh mà sống tội lỗi
thì chỉ làm hại mình hại người. Người giàu sang mà sống ích kỷ bỏn xẻn, tham
lam vô độ, không biết tri túc... thì không chắc đã hạnh phúc hơn những người
nghèo khó. Người có địa vị cao nhưng lại lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm
oan trái oán thù.
Như thế, tiền tài
danh vọng chưa phải là yếu tố tiên quyết cho một đời sống hạnh phúc. Trái lại
điều kiện đem lại an vui là có tinh thần lành mạnh. Và một tinh thần chỉ có thể
gọi là lành mạnh khi không bị tham lam dục vọng, sân hận oán thù hay si mê lầm
lỗi chi phối.
Trong kinh
Dhammapada Đức Phật dạy:
" Lành thay thân được trong sạch,
Lành thay khẩu được trong sạch,
Lành thay ý được trong sạch,
Lành thay tất cả đều trong sạch "
Qua lời dạy trên
của Đức Phật chúng ta thấy bí quyết hạnh phúc là một đời sống trong lành, thanh
tịnh nghĩa là không bị ô nhiễm bởi tham, sân, si trong mọi hành động, nói năng,
và suy nghĩ . Cho nên Ngài dạy tiếp:
" Hạnh phúc thay, ta sống không tham giữa cuộc
đời đầy tham ái!
Hạnh phúc
thay, ta sống không sân giữa cuộc đời đầy sân hận!
Hạnh phúc
thay, ta sống không mê giữa cuộc đời đầy mê muội! "
Đức Khổng Tử cũng
dạy trong Tứ Thư rằng mọi người phải biết: "Tu kỳ thân, chánh kỳ tâm,
thành kỳ ý" thì mới mong gia đình êm ấm, đất nước thịnh trị và thiên hạ
thái bình.
Cũng trong Kinh
Pháp Cú Đức Phật dạy rất đơn giản và cụ thể rằng: Muốn giữ cho hành động, lời
nói, ý nghĩ được trong sạch, hiền thiện, chân chính thì phải "tránh xa các
điều ác, làm các hạnh lành và giữ tâm thanh tịnh"
1- TRÁNH CÁC ĐIỀU
ÁC (Sabba pāpassa akaranaṁ):
Đức Phật dạy giới
luật với mục đích giúp chúng ta tránh các điều ác; không hành động nói năng bất
thiện, để thân, khẩu được trong sạch, hiền thiện, không tự hại, không hại
người. Đối với hàng cư sĩ Ngài dạy ngũ giới:
a) Không sát sanh
(Pānātipātā veramanī):
Để tôn trọng sự
sống của muôn loài, chúng ta không nên vô cớ giết hại sinh linh, dù là sinh
mạng của con người hay loài côn trùng cầm thú. Như thế chúng ta sẽ loại trừ
được hành động ác hại và tâm ác hại, trưởng dưỡng được đức tánh từ bi, nhờ đó
không gây thêm oan trái, oán thù. Một trong những điều kiện tạo nên đời sống an
lành là giàu tình thương yêu và không có kẻ thù nghịch.
b) Không trộm cắp
(Adinnādānā veramanī):
Để tôn trọng tài
sản của nguời khác, chúng ta không nên lấy bất kỳ cái gì chưa được sở hữu chủ,
hoặc người giám hộ cho phép. Nhờ thế chúng ta từ bỏ được tính tham lam ích kỷ,
nuôi dưỡng đức tính tri túc và vị tha. Không làm khổ người bị mất, không tự
mình ray rứt, hối hận. Hơn nữa người trộm cắp luôn luôn nơm nớp lo sợ bị truy
tố trước pháp luật, bị nhục nhã v.v. Ngừơi không tham lam ích kỷ, biết tri túc,
vị tha sẽ sống một đời sống thanh bạch, an lạc.
c) Không tà hạnh
(Kāmesu micchacarā veramanī):
Để tôn trọng hạnh
phúc gia đình người khác, để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình, vợ chồng cần phải
sống chung tình, hòa thuận, tin yêu, mỗi người biết làm tròn bổn phận của mình,
trọn tình trọn nghĩa với nhau để chung lo xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái
thì đó chính là một gia đình đầm ấm. Tà hạnh chỉ đem lại khổ đau tan vỡ cho gia
đình mình, gia đình người khác, ảnh hưởng tai hại đến con cái, đến họ hàng
quyến thuộc.
Ba điều trên giúp
cho thân nghiệp được trong sạch hay nói một cách khác là để làm chủ hành động
hằng ngày của mình, không để rơi vào bất thiện.
d) Không nói dối
(Musāvādā veramanī):
Để tôn trọng sự
thật, để không tập thành thói quen dối mình gạt người, chúng ta không nên dối
trá, lừa gạt người khác. Người rèn luyện được đức tính thành tín chân thực sẽ
được mọi người tín nhiệm, tin tưởng. Dĩ nhiên trong công việc giao tế hằng ngày
ai cũng muốn được tín nhiệm vì đó là yếu tố thành công trên đường đời. Không
nên nói dối dù chỉ nói chơi vì như thế là tự làm giảm uy tín của mình.
Giới điều nầy
giúp khẩu nghiệp trong lành, nói năng chân thực.
e) Không uống
rượu (Surā meraya majjappamādatthānā
veramanī):
Không phải chỉ
Phật giáo mà nhiều tôn giáo khác cũng dạy tín đồ không nên uống rượu. Vì người
say sưa tự hạ phẩm cách của mình. Hơn nữa, theo y học rượu làm cho mạch máu bị
xơ cứng, không co giãn được, dễ bị chứng lưu huyết, xơ gan, tai biến mạch máu
não, giảm trí nhớ và nhiều bệnh chứng nguy hiểm khác.
Vậy người Phật tử
giữ giới chính là để tránh xa những điều ác, xây dựng một cuộc sống lành mạnh
từ thể chất đến tinh thần.
2- LÀM CÁC HẠNH
LÀNH (Kusalassa upasampadā):
Hạnh lành, công
đức hay điều thiện bao gồm những hành động, nói năng, suy nghĩ lợi mình lợi
người. Điều gì làm đoạn giảm vô minh ái dục, phiền não khổ đau cho chính mình
hay người khác đó là điều thiện. Cụ thể như: Bố thí, trì giới, tham thiền, cung
kính, phục vụ, nghe pháp, thuyết pháp, chia sẻ phước mình làm với người khác,
hoan hỷ phước người khác làm, và thường học hỏi chiêm nghiệm để bồi dưỡng chánh
tri kiến.
- Bố thí (Dàna) hay san sẻ cho người khác là khởi
đầu của lòng từ thiện, đồng thời giúp chúng ta loại bỏ dần lòng xan tham, ích
kỷ để phá hủy thành trì chấp trước ngã sở. Có ba cách bố thí:
a) Tài thí (Amisa dāna):
Với tình thương
chúng ta san sẻ, giúp đỡ, hiến tặng người khác bằng phương tiện vật chất như
tiền của, tài sản, thực phẩm, thuốc men, chỗ ở, y áo v.v. tùy khả năng và lòng
hảo tâm của mình lúc họ gặp khó khăn, túng thiếu được gọi là tài thí.
Dâng cúng thầy
tổ, phụng dưỡng mẹ cha với lòng tôn kính tri ân cũng thuộc về tài thí nầy.
b) Pháp thí (Dhamma dāna):
Thấu hiểu được
đạo lý là điều quan trọng bậc nhất trong cuộc sống. Chính vì không thông hiểu
đạo lý mà nhiều người tự làm khổ mình, làm khổ gia đình, cha mẹ, vợ con và biết
bao người khác. Nếu chúng ta đã có hữu duyên học được đạo lý làm người, đạo lý
giác ngộ, đã tháo gỡ được những xáo trộn bất an, đã hưởng được ít nhiều hương
vị an lạc giải thoát thì cũng nên tùy cơ hội chia sẻ với người khác, giúp họ
sống thuận lẽ đạo để vơi bớt phiền não khổ đau cho bản thân và xã hội. Đó là
pháp thí.
c) Vô úy thí (Abhaya dāna):
Người sống hiền
lương trong giới hạnh, không làm các điều ác, không gây tổn hại chúng sinh thì
chắc chắn người đó không làm cho ai lo lắng sợ hãi. Trái lại tâm hồn vị tha,
bao dung, quảng đại của người ấy sẽ giúp cho những người chung quanh cảm thấy
an toàn, tự tin hơn. Do đó người ấy chắc chắn được mọi người quý mến. Sống
trong một cộng đồng được mọi người kính yêu dĩ nhiên là một phần thưởng xứng
đáng, nhưng phần thưởng lớn hơn chính là niềm hạnh phúc khi đời sống hiền thiện
của họ có thể đem đến sự an bình vô úy cho mọi người. Đó là vô úy thí.
3- GIỮ TÂM THANH
TỊNH (Sacitta pariyodapana m):
Đức Phật dạy:
"Không có an lạc nào bằng sự tịch tịnh" (Natthi santi paraṁ sukhaṁ).
Thật vậy, khi tâm
hồn không bị tham lam, sân hận, si mê chi phối thì chúng ta sống vô cùng an
bình, tĩnh lặng và trong sáng. Đó chính là một đời sống hạnh phúc cao thượng.
Phương pháp hoàn
hảo nhất để giúp tâm thanh tịnh, trong sạch là sống thiền. Vì nguyên nghĩa của
từ Jhāna là sự đốt cháy phiền não. Chính những phiền não như tham, sân, si, ngã
mạn, tà kiến, ích kỷ, tật đố... làm cho đời sống chúng ta đau khổ. Khi những
phiền não này đã bị đốt cháy thì hiển nhiên chúng ta được an vui tự tại.
- Thiền có hai
loại : Thiền định (samādhi) và thiền tuệ (vipassanā). Thiền định giúp chúng ta
có một đời sống nội tâm thanh tịnh, trầm ổn, và an lạc, một đời sống được Đức
Phật mô tả là hiện tại lạc trú (ditthidhamma sukhavihāra).Thiền tuệ giúp chúng
ta soi sáng đựơc thực tánh của các pháp, và đưa chúng ta ra khỏi ngục tối của
si mê, lầm lạc, tà kiến và vô minh.
Paul Adam, một
học giả uyên thâm giáo lý Đức Phật đã ca tụng sự tĩnh lặng của tâm hồn trong
bài thơ:
"Bao kẻ đi tìm trong quá khứ
Vạn pháp huyền vi của cuộc đời
Bao kẻ tìm trong ngày sẽ lại
Cành hoa chớm nở đượm màu tươi
Nhưng ngươi nên hay hóa lòng ngươi
Thành đỉnh trầm trong cảnh lặng thôi".
Nói tóm lại, Đạo Phật tuy cao siêu nhưng không quá xa với thực tế đời sống, đúng như một học giả đã nói: "Đạo Phật là một nghệ thuật sống"
TS Viên Minh
(trích Con Đường Hạnh Phúc )
Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016
Tình em biển cả
Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay
Non nước mây trời lòng ta mê say
Sóng nước trùng dương dài theo bờ cát
Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát.
Theo những cánh chim bầu trời bao la
Con sóng đung đưa thuyền ra khơi xa
Vẫn mang tình em mùa xuân rực rỡ
Giếng nước bờ tre đồng thơm rạ lúa.
Biển sóng mênh mông màu xanh yêu thương
Đất nước quê hương lồng lộng gió muôn phương.
Những câu hát về hòn đảo xa hùng vĩ
Những năm tháng là bản hùng ca biển khơi
Dũng sĩ như ngọn hải đăng sáng chói chiến công.
Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay
Non nước mây trời lòng ta mê say
Những cánh buồm dong chạy theo dòng cá
Những dãy đảo xa đẹp như bài thơ.
Theo những cánh chim bầu trời xanh trong
Con sóng đi theo thời gian mênh mông
Vẫn mang tình em mùa xuân rực rỡ
Náo nức lòng trai ngày đi biển xa
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn
Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016
Hoa sữa
Tuổi mười lăm em lớn từng ngày
Một buổi sáng bỗng thành thiếu nữ
Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ
Hoa sữa thơm ngây ngất quanh hồ
Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan trong sương gió mong manh
Tại mùa thu, Tại em hay tại anh
Tại sang đông không còn hoa sữa
Tại siêu hình, tại gì không biết nữa
Tại con bướm vàng có cánh nó bay
Đau khổ nhiều nhưng éo le thay
Không phải thời Romeo và Juliet
Nên chẳng có đứa nào dám chết
Đành lòng thôi, mỗi đứa mỗi phương
Chỉ mùa thu còn trọn vẹn nhớ thương
Hương hoa sữa cứ trở về mỗi độ
Hương của mối tình đầu nhắc nhở
Có hai người xưa đã yêu nhau.
Một buổi sáng bỗng thành thiếu nữ
Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ
Hoa sữa thơm ngây ngất quanh hồ
Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan trong sương gió mong manh
Tại mùa thu, Tại em hay tại anh
Tại sang đông không còn hoa sữa
Tại siêu hình, tại gì không biết nữa
Tại con bướm vàng có cánh nó bay
Đau khổ nhiều nhưng éo le thay
Không phải thời Romeo và Juliet
Nên chẳng có đứa nào dám chết
Đành lòng thôi, mỗi đứa mỗi phương
Chỉ mùa thu còn trọn vẹn nhớ thương
Hương hoa sữa cứ trở về mỗi độ
Hương của mối tình đầu nhắc nhở
Có hai người xưa đã yêu nhau.
Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016
Giáo sư ngôn ngữ
"Một nông dân chăn gà, không thoả mãn với năng suất của đàn gà, quyết định dùng một chút đòn tâm lí với lũ gà mái. Anh ta mua một con vẹt biết nói mầu xám và đặt nó vào sân nuôi gà. lũ gà mái chú ý ngay tới kẻ lạ mặt điển trai, đưa thức ăn ngon nhất cho nó ăn để lôi kéo sự chú ý bằng tiếng cục cục vui sướng, và nói chung đi quanh theo sau nó như một bầy thanh nữ xúc động đi theo sau ngôi sao ca nhạc. Điều làm anh nông dân vui mừng là năng lực đẻ trứng của chúng tăng lên. Con gà trống trong sân, tự nhiên ghen tị vì bị lũ gà mái bỏ qua, liền tấn công kẻ hấp dẫn dám xâm phạm quyền lợi của mình, dùng mỏ và móng mổ túi bụi, dứt hết lông xanh tới lông đỏ… Trong khi đó con vẹt bị tấn công cứ kêu gào thảm thiết: " Thôi đi thưa ngài! Tôi cầu xin ngài đấy, thôi đi! Tôi.. tôi chỉ ở đây với khả năng của giáo sư ngôn ngữ thôi!"
Nguồn Osho
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)